Thứ Tư, 17 tháng 4, 2024

Nhà Chăn Nuôi Tí Hon

 

Độ rày đọc báo thấy chánh phủ cho nhập cảng gà nhiều quá, rồi kẻ mua gà loại này, người bán gà giống nọ, nghe thật nhộn nhịp. Phương thấy lòng háo hức vô cùng nên nhứt quyết xin má cho nuôi thử. Nhưng Phương chợt lo ngại, biết má có chịu không chứ! Nhà cũng đâu rộng rãi gì cho cam, lại chẳng có lấy một cái sân nhỏ nữa, rõ khổ thật! Nhưng chỉ thoáng trong một chốc nét mặt Phương lại tươi lên ngay ; à đã có cách: Phương sẽ nhờ Hà trong việc thuyết phục má, vì Hà là con gái út nên được cả nhà thương yêu chìu chuộng vô cùng, mặc dầu năm nay nó đã 7, 8 tuổi rồi. Nếu có Hà nói giúp chắc má cũng xiêu lòng. Nghĩ như thế nên Phương bèn đi tìm Hà. Gớm, con nhỏ coi vậy mà khó tánh ghê, Phương phải hứa bừa đủ điều với nó, nào là sẽ ưu tiên cho Hà trong việc chọn gà, nào là khi gà đẻ, có bao nhiêu trứng sẽ để dành cho Hà ăn "cóc la" cả, như thế nó mới chịu nhận lời ủng hộ tinh thần giùm.

Thế là hai chị em bắt đầu một "công tác tâm lý chiến". Mới vừa nghe Hà trình bày ý định này má đã cười vang lên:

- Chèn ơi con còn con nít mà cũng bày đặt nuôi gà. Rủi mới đem về vài ngày rồi nó rủ nhau chết cả đám thì nguy to à!

Hà vội vàng đính chánh:

- Dạ con không có nuôi mà tại chị Tư kêu con nói giùm đó má.

Phương xà đến gần má:

- Má cho con nuôi gà nghe má.

- Nhưng mà con nhắm coi biết nuôi hôn?

Phương mừng rỡ:

- Má chịu cho con nuôi hả má? Hoan hô má! Má thượng thượng hạng trên đời này.

Má  lại được thêm một dịp cười nữa:

- Con làm như má là món đồ chẳng bằng. Ờ nhưng mà rồi tiền đâu con mua gà?

Phương, Hà nhao nhao lên:

- Dạ tụi con bỏ ống được 450 đ rồi má.

Số là mỗi sáng Phương chịu khó nhịn tiền quà bánh, cứ mỗi ngày để dành được 15 đ, non một tháng như thế, tính đến nay cũng đã khá bộn tiền. Phương đã tính trước rằng với 450 đ này cũng đủ mua một chục con gà mới nở.

Như vậy ngày mai hai đứa sẽ nhờ anh Ba dẫn đi mua hộ với, vì đây là lần đầu nuôi gà nên Phương chẳng biết phải chọn giống nào, phải nhờ người lớn mới được. Thôi như thế mọi chuyện đã tạm dàn xếp ổn thỏa, và Phương cảm thấy vui trong lòng...

*

Đám gà của Phương đặc biệt lắm, cả mười con từ đầu đến chân đều khoác lên mình bộ lông màu đen mướt. Vì hôm mua Phương và Hà thấy ngộ ngộ nên thích quá bèn đồng ý chọn gà màu này, vả lại Phương cũng nghe người ta nói gà lông đen khỏe mạnh, ít chết hơn gà lông hồng, vàng.

Hôm nay khi mới đem gà về thì chưa chi má đã kêu lên:

- Trời ơi gà của người ta là con gái nhà giàu nên lông hồng mơn mởn xinh đẹp thế kia, còn bà của chị em bây là con gái nhà nghèo nên con nào cũng đen đúa xấu xí quá đi, coi thiệt dơ dáy.

Nghe má nhạo như thế là con Loan - ở cạnh nhà Phương - đứng chúm chím miệng cười, vì nhà nó cũng nuôi gà con lông vàng. Cứ nhìn cái mặt vênh vênh tự đắc của nó Phương đủ thấy tức khí dâng tràn lên cổ họng và liền trả đũa:

- Ờ, để mày coi, gà của mày thế nào ít bữa nữa cũng có vài con "buồn buồn" cho coi. Thứ gà thục nữ yếu đuối như vậy làm sao sống lâu được! (Khi nói tiếng "buồn buồn" là Phương muốn ám chỉ mấy con gà của Loan sẽ chết non để trả thù cho đỡ tức).

Má trừng mắt nhìn Phương:

- Thôi nghe Phương, bạn bè với nhau mà con nói như vậy không sợ Loan giận sao? 

Thấy má chẳng chịu ủng hộ "gà nhà" nên Phương buồn bã im lặng. Thôi mặc kệ, ai có chê cười gì thì cóc cần, miễn sao Phương lo nuôi nấng cho chúng lớn là được.

Sau đó Phương nhờ anh Ba đóng hộ một cái chuồng nho nhỏ. Vì tuy là một học trò gầy yếu nhưng hầu như cả ngày anh chỉ thích làm những công việc tẳn mẳn có phụ thêm bộ đồ nghề như kềm răng, mỏ lết, con vít, cái cưa... Rồi thế nên cả nhà đặt anh biệt hiệu là: "Anh Ba lục đục". Vì trước kia lỡ trêu ghẹo anh nên bây giờ khi Phương nhờ đóng giùm cái chuồng, anh đã nhân cơ hội này lên mặt làm tàng bắt chẹt Phương:

- Vậy sao hồi đó Phương chọc anh chi vậy?

- Thì hồi đó em giỡn chơi mà.

- Hổng giỡn gì hết, ai biểu hồi đó chê tui lục đục thì bây giờ chịu khó làm lấy đi.

Trời ơi, từ nhỏ đến lớn có bao gờ Phương đụng mó đến những dụng cụ đó đâu, hơn nữa Phương lại là con gái, anh không nhớ như vậy sao mà nay bắt Phương phải đụng chạm đến những món đó? Nghĩ tức hết sức, Phương muốn nuôi gà là đem cái lợi về cho gia đình nhưng không ai chịu như vậy cả mà cứ làm khó làm dễ, hết o bế người này lại đến van lơn người khác, thế là nghĩa lý gì chớ? Tự nhiên Phương đâm ra "oán thù" tất cả mọi người, muốn bỏ mặc đàn gà ra đó chắc thế nào cũng phải có người lo cho chúng. Nhưng khi nhìn lại những con gà bé nhỏ, mồm sẽ kêu lên mấy tiếng "chíp chíp", mắt giương tròn vo tỏ vẻ ngơ ngác sợ hãi, như cầu cứu ở Phương một sự che chở bao la, Phương bỗng thấy lòng mình dịu lại và cố lấy giọng ngọt ngào năn nỉ anh:

- Thôi đừng giận em nữa mà, anh Ba ráng làm chuồng cho mấy con gà ở, chớ để nó đứng ngoài nắng hoài tội nghiệp lắm. Rồi em xin hứa từ đây về sau không dám chọc anh nữa, nghe anh Ba...

Nói xong Phương đưa mắt khẩn khoản nhìn anh : anh vẫn im lặng không nói, miệng hơi nhếch lên tỏ vả ta đây tài giỏi lắm vậy. Sau mấy giây ngần ngừ, anh uể oải (có lẽ giả vờ) trả lời:

- Thôi tao cũng ráng làm cho mầy vậy, chớ sợ lát nữa đây "nước đái thằn lằn" ứa ra thì mệt à!

Phương quên cả anh đang nhạo mình mà chỉ mừng rỡ la lên:

- Chèn ơi! Anh Ba tốt quá, em cám ơn anh nhiều, nhiều lắm lắm...

Thế rồi anh bắt tay ngay vào việc. Còn Phương và Hà chạy lăng xăng chung quanh mong được giúp anh chuyện gì.

Trong lúc anh hì hục ngồi đóng chuồng thì Hà lo quạt cho anh vì mấy giọt mồ hôi đã ra lấm tấm trên lưng. Mỗi khi cần đồ nghề gì anh chỉ việc dõng dạc sai:

- Đứa nào lấy cho ta cái "tu-la-vít" coi!

"Lệnh" mới truyền ra thì Phương đã nhanh nhẩu mang đến cho anh:. Vì lúc này anh nhờ nên Phương mới phải chịu lép vế như thế, giá là lúc thường thì chẳng khi nào Phương lại phục tùng anh bao giờ. Và nếu ngày nào Phương và Hà hợp nhau để nhạo bàn tay năm ngón dùi đục của anh thì giờ đây Phương thấy bàn tay ấy đẹp đẽ cao cả vô cùng. Nhờ bàn tay nầy mà đám gà của Phương mới có nơi nương tựa. Tự nhiên Phương cảm thấy phục và càng thêm thương anh. Thỉnh thoảng Phương ráng lựa lời khen cho anh vui, chẳng hạn: "Chà! Gà của em có phước lắm mới được ở chuồng anh Ba đóng đó". Có lẽ anh thừa hiểu "tim đen" của Phương nên chỉ mỉm cười trả lời:

- Thôi đi cô ơi, đừng bày đặt "nịnh đầm" để tôi làm cho tốt, tôi biết cô quá xá mà.

Phương cúi đầu bẽn lẽn vì thấy anh nói đúng tâm lý mình ghê.

Chừng gần 3 giờ sau chuồng được đóng xong, anh Ba đứng dậy thở phào một cái, rồi mệt nhọc đưa tay vuốt cái lưng bóng nhẵn vì mồ hôi tuôn ra ướt đẫm cả, trông như cột mỡ vậy. Còn Phương và Hà thích quá nên xúm lại tranh nhau sờ mó chuồng và miệng không ngớt tấm tắc khen ngợi. Riêng anh chỉ nghiêng đầu qua nghiêng đầu lại ngắm nghía "tác phẩm" của mình mới vừa hoàn thành rồi hất hàm hỏi:

- Cái chuồng coi được hôn tụi bây?

- Mèn ơi như vậy là số dách rồi còn gì nữa. Chuồng coi đẹp ghê vậy anh.

- Dám nhiều khi mấy ông thợ nhà nghề còn chưa đóng bằng anh nữa đó.

Có lẽ anh khoái chí lắm nên Phương trông mũi anh cứ phập phồng mãi.

Sau đó Phương tính sẽ đặt chuồng ở ngay dưới bếp nấu ăn vì thấy như thế cũng tiện: ở trên là mấy cái "rề sô", Phương vừa có thể đứng nấu ăn, lâu lâu ngồi xuống ngắm mấy chú gà cho đỡ mệt. Thế rồi Phương lấy báo lót lên sàn lưới của chuồng và cẩn thận bắt từ con gà nhốt vào. Còn Hà nhát quá, chỉ dám nhè nhẹ đưa tay vuốt mấy sợi lông mềm mại êm như nhung của chúng. Tánh nó vậy đó, sợ gà không ai bằng.

Xong xuôi đâu đó cả rồi, chị em ngồi nhìn đám gà tí hon nô đùa chạy giỡn, và miệng bàn tíu tít đủ chuyện. Như thế từ đây Phương với Hà sẽ lãnh phần nuôi nấng chúng. Hai chị em cùng thấy hãnh diện vì được "lãnh đạo" mấy chú bé con này. Mộng ước bấy lâu nay đã thành, Phương thở dài khoan khoái...

*

Đồng hồ thong thả gõ 7 tiếng. Phương giật mình mở choàng mắt, nhìn ra ngoài trời đã sáng rõ. Sau khi cuốn mùng chiếu xong Phương xuống nhà dưới thăm đám gà con. Tính từ ngày đem chúng về đến nay cũng đã được một tuần, thế nhưng Phương thấy chúng chỉ lớn hơn lúc đầu một chút xíu thôi, như vậy biết đến bao giờ mới làm thịt được đây? Có lẽ tại Phương cứ mong cho đám gà của mình mau lớn nên dường như thời gian càng kéo dài ra (?) Từ khi nuôi gà thì mỗi sáng lúc thức dậy Phương lò mò xuống bếp lo thay giấy trong chuồng, rồi lấy thực phẩm loại Vinafeco đổ vào máng ăn và thay nước sạch cùng nhỏ vào mấy giọt Vitamycine cho chúng uống (hầu tránh việc vài mạng gà có thể bất chợt "buồn buồn" chơi khiến con Loan nó cười thì... mắc cỡ chết được). Gớm, mấy chú này háu ăn thật, chú nào cũng vừa tranh nhau đút mỏ vào máng ăn và miệng không ngớt kêu ríu rít cả lên. Nhiều con chen không lại đành bị hất văng ra ngoài, thế mà cũng gượng dậy và chạy lại cố lấn cho được đến gần máng, trông thật tức cười. Ăn no rồi các chú khát nước, bèn đến cái tô nhỏ bằng nhôm uống. Nhìn mấy sợi lông ống hơi nhú ra ở đôi cánh nhỏ và mấy cái đầu bé tí tẹo, tròn tròn, phù lông đen mướt cứ ngửa lên cúi xuống đến mươi lần trông mới dễ yêu làm sao! Những lúc đó Phương muốn nựng chúng thật mạnh, nhưng chỉ dám đưa tay bóp nhẹ cái mình bé bỏng, nhiều chú hốt hoảng há mõm kêu to mấy tiếng đoạn chạy lánh nơi khác, và rồi cũng vẫn hồn nhiên trửng giỡn hoặc nằm chịu nắng ra chiều thích thú lắm vậy. Có lần Phương thử cầm một con lên tay, thoạt đầu cu cậu giẫy nẩy loạn xi lên, nhưng chừng một lát sau thì nó mệt nhọc khép màng trắng lại và từ từ buông thõng đầu ra đàng sau, Phương hết hồn tưởng đâu mình làm đau nên nó chết và luống cuống chẳng biết phải xử trí thế nào bây giờ. Lúc đó anh Ba đứng gần đấy thấy vậy bèn reo hò inh ỏi:

- Thôi rồi nguy quá, con gà của Phương đi chuyến tàu suốt về âm phủ rồi. Ò... e... Rô be đánh đu... Tarzan nhảy dù... ô hô! Vui quá anh em ơi!!! 

Phương giận run lên, miệng đã hơi mếu mếu, trong lúc bối rối như thế này anh chẳng giúp Phương lại nỡ nào vỗ tay bôm bốp và còn ca hát om sòm nữa chớ? Nhưng đột nhiên con gà choàng mở mắt và nó tiếp tục giẫy giụa. Giữa lúc Phương còn ngơ ngác chẳng hiểu vì sao nó hồi sinh lại được thì anh đã nhăn răng cười khì khì rồi giải thích:

- Phương khờ quá đi, ai đời con gà nó chỉ giả bộ chết để người bắt thả nó ra, vậy mà cứ cuống cuồng như gà mắc đẻ ấy! Loan ơi! Qua đây lẹ lẹ lên, coi cái này vui lắm nè!...

Phương vội vàng đưa tay bịt miệng anh:

- Ấy chết, anh nói nhỏ nhỏ chớ rủi con Loan nó qua thiệt rồi nó cười thì chết em rồi. Anh này ác quá hén, nghỉ anh ra luôn đó.

Anh Ba chẳng nói gì cả mà cứ tiếp tục đứng cười hềnh hệch. Trông cái mặt anh lúc đó mới dễ ghét hết sức, Phương chỉ muốn thoi một cái thật mạnh vào cho hả giận. Giờ ngồi nhớ lại Phương thầm tức cười vì thấy mình rõ ngốc thật, đã để con gà tinh quái làm một mẻ khiến Phương phải một phen sốt vó. Ghê nhỉ, mấy cô cậu gà coi bề ngoài ngây thơ là vậy, thế nhưng thật ra cũng mưu mô gớm lắm, ai mà ngờ được. Nhưng Phương chợt nghĩ: hay đó chỉ là một thông tánh của loài gà? Ờ, biết đâu chừng, chớ lẽ nào chúng lại không ngoan đến mức biết giở cả trò lường gạt người ta hay sao? Vả lại về khoản nói dóc thì anh Ba trứ danh nhứt nhà đấy! Còn ai lạ gì cái mồm ba hoa láo khoét của ông ấy chứ.

Lúc đầu Hà còn sốt sắng phụ với Phương lo chăm sóc gà, nhưng vài ngày sau nó đã tỏ vẻ chán nên mỗi khi Phương thức dậy lo cho gà thì hắn chỉ nằm cuộn mình trong chăn ấm nệm êm để ngủ nướng, nghĩ coi tức không chớ? Nhưng Phương chẳng thèm nhờ nó, một mình Phương lo cũng được và nghĩ rằng sau này nếu có kết quả gì thì chỉ Phương độc quyền được hưởng thôi, còn mấy lời hứa lúc đầu kể như "nơ pa", vì công lao nuôi gà của Phương lớn lắm chớ chẳng vừa đâu. Nghĩ như thế nên Phương vẫn không nản lòng, ngày ngày vẫn làm đầy đủ bổn phận một vị "chủ nhơn" của đám gà. Bởi vậy bầy gà đã quen với Phương, nên mỗi khi vừa thấy bóng dáng Phương đến gần là chúng mừng rỡ nhốn nháo, miệng không ngớt kêu vang lên. Nhiều con lại cả gan vỗ vỗ đôi cánh bé bỏng đòi nhảy lên thành chuồng để đón mừng Phương nữa. Những lúc đó Phương cảm động và thương chúng ghê! Phương thấy loài gà cũng giống như đứa trẻ sơ sinh, tuy còn nhỏ dại nhưng cũng biết mến hơi người nào đã nuôi nấng, đã ôm ấp nâng niu nó, còn nếu sang tay người khác thì chẳng bao giờ đứa bé chịu cho ẵm bế cả. Đó, lý do khiến Phương thích nuôi gà chỉ giản dị có thế, và những sự trìu mến mà đám gà dành cho Phương đã là mối khích lệ không nhỏ trong việc Phương nuôi chúng, và cũng bởi thế mà nhiều buổi sáng vì mải mê ngắm mấy chú gà tí hon khiến Phương quên cả đánh răng súc miệng...

Đang miên man ngồi nghĩ ngợi cạnh chuồng gà, chợt có tiếng nói vang lên làm Phương giật mình:

- Thôi chứ cô nương, lo rửa mặt rồi ăn lót lòng đặng phụ với tôi làm công chuyện nữa chớ, sáng nào cũng đợi nhắc hết. Con nhỏ này coi vậy mà mê gà quá hén, thứ gà đen thui thủi mà tối ngày cứ đeo theo hoài!

Đó, má lại ghẹo đám gà của Phương nữa rồi, nhưng chả sao, miễn là Phương rán nuôi thế nào để còn đủ mười con là được, và khi chúng đã "trưởng thành" nếu là chàng gà trống thì mỗi sáng Phương sẽ nhờ tiếng gáy "ò... ó... o... ò....o... " của cu cậu để dậy sớm chớ không ngủ trễ đến 7, 8 giờ như lúc trước. Còn nếu là nàng gà mái thì mỗi ngày Phương sẽ có dịp ra chuồng nhặt mấy cái trứng xinh xinh, hồng hồng vô khoe với má, với anh Ba, vì hai người này suốt ngày cứ hùa nhau để chế riễu đám cục cưng của Phương hoài hà! Phương vẫn thường tự an ủi mình như vậy mỗi khi có ai công kích bầy gà. Lúc đó cả nhà Phương và cả cái con Loan vô duyên đáng ghét nữa, sẽ hết dám chê cười đám "con gái đen nhà quê" này ; mà ai cũng phải lè lưỡi thán phục tài nuôi gà số dách của Phương. Chu choa ôi! Mỗi khi nhắm mắt lại hình dung đến giây phút "huy hoàng rực rỡ" ấy là Phương cảm thấy một niềm hãnh diện dâng cao trong lòng pha lẫn nỗi vui sướng rào rạt. Bất giác Phương khẽ mỉm một nụ cười thật tươi và tự nhiên thấy trong lòng hăng hái phấn khởi lạ...


HÀ CHINH       

(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 103, ra ngày 1-4-1969)

Thứ Ba, 16 tháng 4, 2024

Xin nghìn Đời Là Bé

 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Xin nghìn đời là bé
Cô bé tuổi bình minh
Tóc hai đường ngôi rẽ,
Áo lụa mới trắng tinh.

Xin nghìn đời là bé
Đôi mắt như hồ thu
Rộn ràng chân chim sẻ
Trên cỏ đọng sương mù

Xin nghìn đời là bé,
Cô bé rất hiền ngoan
Ngày qua ngày lặng lẽ,
Cùng sách vở miên man.

Xin nghìn đời là bé,
Ngọt ngào hương ô-mai
Trên đôi môi nở hé
Trăm nụ cười mê say.

Xin nghìn đời là bé
Cô bé tuổi hồn nhiên
Thu theo mẹ đi lễ
Ngoan hiền như con chiên

Xin nghìn đời là bé,
Rực rỡ đôi má hồng
Tan học về khe khẽ
Hát lời ca mênh mông.

Xin nghìn đời là bé
Cô bé tuổi rong chơi
Hay làm nũng bố mẹ
Mỗi khi lòng rộn vui

Xin nghìn đời là bé
Loài chim nhỏ dịu dàng
Đẹp xinh như bức vẽ
Cô bé tuổi tròn răng.

                              THẢO
                             (Phú Lâm)

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 124, ra ngày 1-5-1974)

Chủ Nhật, 14 tháng 4, 2024

Lá Cây Xanh

 

Buổi chiều đến, cô bé mở tung cánh cửa sổ trên lầu cao. Cô bé ngồi đó, tay chống lên cằm tư lự. Cô bé bứt tung giải lụa hồng để mái tóc lấm chấm vai xõa ra. Cô bé khẽ chớp mắt mơ màng, ánh mắt như một cánh sao nhỏ và lung linh sáng. Cô bé đang tập làm người lớn đấy, bởi vì lứa tuổi mười ba này, má vẫn cho là bé bỏng.

Những hàng cây trước nhà cao và lá bay lả tả đẹp như ở công viên. Gió lùa vi vu qua vườn, lùa tung cả mái tóc đen vừa mới dài xuống. Cô bé nghe như gió đang nhìn vào đôi mắt đen láy của cô mà mỉm cười. Cô bé mong gió mang lại mây hồng trên núi Ngự Bình, hoa sim thơm thoang thoảng trên đồi Vọng Cảnh. Và cô bé lắng nghe, gió mang thêm tiếng chuông giáo đường thánh thót, ngân nga. Cô bé chắp đôi tay bé bỏng, niềm tin yêu về tràn ngập tâm hồn. Cô bé nhớ những ngày tháng đi xa, cô bé có những người bạn hiền và ngoan buổi bình minh ngồi trên băng đá nhà trường nghe chuông đổ dồn dập, ăn bánh mì, uống nước ngọt và đọc chuyện người tiên.

Gió lại đến mơn man tóc cô bé, gió buổi chiều thật hiền. Gió thì thào nói chuyện. Giọng ngọt ngào và ngây thơ như búp bê Patsy trong tủ kính. Cô bé thích nghiêng nghiêng mái tóc để lá rớt lên trên, để mỉm cười mà gió không trông thấy, để nắng chết buổi chiều hong lên tóc, đẹp như cả một bài thơ.

Mây trên đỉnh núi xa vời có lẽ hồng và đẹp lắm nhỉ, hồng hơn cả giải lụa buộc tóc này. Gió ơi, mang lại cho cô bé đi, để cô bé may áo cho búp bê, may áo cho má. Cô bé quay nhìn hướng khác, trong thành nội bây giờ chắc hoa nhãn rụng đầy mặt đất, cột cờ cao và màu đại nội buồn bã ghê lắm. Cô bé có một người bạn ở trong đó, đi học trường Thành Nội, mái tóc ngắn và váy đầm xinh ơi là xinh. Người bạn đó chưa hề nói chuyện với cô bé bởi vì hai đứa không quen nhau và cũng chẳng biết nhau bao giờ, song cô bé thích và yêu người bạn đó, người bạn mà cô bé tự vẽ lấy trong trí và mơ mộng một mình thôi. Ơ kìa, sao gió cười khúc khích? Gió muốn chế nhạo tưởng tượng của bé chắc?

Cô bé giận dỗi quay mặt, gió len lén lảng ra xa như cô bé khi bị má mắng. Cô bé để mặc gió buồn, cô bé để hồn lang thang trên mấy từng trời cao, mây hồng quyện lấy đôi chân bé bỏng, những nàng tiên chắc bận hái đào nên quên, để cô bé thơ thẩn nhìn từ trên cao xuống, không gian dịu dàng màu xanh ngắt.

Cô bé nhớ một lần được đi trên tàu, buổi bình minh nắng trải vàng óng ánh mặt nước. Cô bé đã nằm chống tay lên má, nhìn rất lâu, nhớ rất kỹ màu nước xanh thăm thẳm có mạ vàng ấy, sóng nhỏ nhấp nhô, trông đẹp và dễ thương ghê. Cô bé nhìn sang bên bờ, biển dạt dào dậy sóng, bọt bắn tung tóe lên trời. Những con sò màu hồng màu tím nhàn nhạt bị xô vào nằm trên bãi cát trắng. Chiếc tàu lắc lư làm cô bé hơi chóng mặt song cô bé vẫn thích đi tàu và mơ mộng làm sao, cô bé ước được trở thành chú thủy thủ ngồi trên buồng lái. Cô bé ao ước được ngủ một đêm trên tàu, chắc là sao ở biển sáng và đẹp hơn sao ở lục địa (???). Có một người ngồi trên cao nhất thổi ac-mô-ni-ca làm cô bé ngây say như uống một ít bia có bọt nổi trắng. Có lẽ tiếng kèn ấy ban đêm cũng hay hơn ban ngày nhiều lắm...
 
Cô bé ơi! Tiếng gió gọi rồi. Nhưng không phải, không phải gió, đó là tiếng gọi hoàng hôn. Hoàng hôn đến! Thướt tha với màu áo xám nhạt có dát nắng chiều vàng. Gót chân hoàng hôn đặt bước đầu tiên ở dưới những tàng cây rậm rạp, rồi dần dần lên hôn cô bé, xua đuổi tia nắng sót sau cùng. Đám hoa lưu ly dưới vườn xạc xào rung động, hoa đổng thảo bối rối núp dưới lá xanh. Có lẽ giờ đây, trên đồi Vọng Cảnh, hoa sim cũng sợ hãi vô cùng. Cô bé muốn lên đó, dang đôi tay che chở cho sim, ru sim ngủ như má ru em bé và hôn chúng như cô bé từng hôn má vậy. Mấy chị học trò nhà ở xa đang đi thật vội, ba hối hả cho xe đi nhanh ở đường Lê Lợi và mấy con chim nhỏ của cô bé đang ríu rít trở về. Cô bé thấy mình lang thang ở bờ sông Hương - nơi mà cô bé vẫn ra ngồi ăn bánh - Dưới sông, người ta đốt đèn trong đó, dèn rọi xuống sông y như có hai nguồn ánh sáng. Bên bờ kia, thành phố đèn màu rực rỡ. Cô bé nhớ một tối nọ, cô bé đi với ba má ngang qua những dãy phố đó, rồi cô bé gặp Patsy. Patsy rực rỡ với màu mắt xanh và má màu hồng, váy đầm trắng tươi xinh như cô bạn trong Thành nội. Cô bé nhất định không đi nữa và má phải mua Patsy về cho cô bé. Để bây giờ, mỗi ngày Patsy được thay một cái áo, mỗi bữa ăn sữa bột của em bé mà cô bé giấu một ít trong bình nhựa. Sáng nào, uống sữa pha ô vanh tin, cô bé cũng cho Patsy vài giọt trong một chiếc tách bé tẻo teo. Cô bé cho Patsy tất cả cái gì mà cô bé có, con gà hai đứa chơi chung... ban đêm ngủ cạnh nhau. Khi cô bé đọc sách, Patsy cũng ghé đọc, cô bé viết Patsy cũng ghé nhìn. Chỉ có khi nào cô bé học bài đọc oang oang, Patsy mới lánh vào tủ kính, chơi với con gà cho đỡ buồn.

Cách đây mấy tháng, khi cô bé chưa tập làm người lớn và cũng chưa nghỉ hè. Những ngày không học, cô bé dắt Patsy xuống vườn chơi buôn bán với gió. Gió hái lá muối lá thông xuống bán, cô bé trả tiền bằng giấy xanh đỏ. Gió thổi tung cả lên, lấm tấm đầy vườn. Nếu má trông thấy được là má la um sùm song má không đánh cô bé bao giờ, con gái cưng nhất mà, má chỉ có cô bé với em bé trai chớ mấy. Chỉ có ba mới nghiêm và hay làm cô bé sợ.

Lá dưới vườn không xanh nhưng nhiều, kêu xào xạc dưới gót chân cô bé. Cô bé thường nhón gót đi rất nhẹ, về mua thu, đôi guốc hồng xách ở tay để khỏi nghiến lá và mấy con kiến vàng đi làm việc chăm chỉ - chăm chỉ hơn cả ba, cô bé nghĩ thầm như vậy. Vì đôi khi nhà có giỗ, hay nhà ai mời đi ăn tiệc, ăn cưới, ba vẫn xin nghỉ để đi. Cô bé hay trách ba ham ăn tiệc mà bỏ việc. Ba cười hỏi lại: vậy con có bao giờ bỏ học ra ăn bánh ở bờ sông không? Xấu hổ, cô bé cúi gầm mặt, rồi bỏ lên lầu, phụng phịu...

Mùa hè trời nóng, nóng bực bội, nhưng buổi chiều thì gió thổi man mác. Lòng cô bé rộng mở, hoàng hôn đến không chậm. Tất cả những ý nghĩ dịu dàng trộn lẫn với nhau khiến cô bé bâng khuâng hớn hở. Có một cái gì rất xanh nhưng là lạ đặt lên trái tim non. Hay tuổi thơ giận dỗi bỏ đi thật rồi vì cô bé muốn làm người lớn? Làm người lớn cũng thích lắm chứ. Cô bé muốn mặc áo dài, đội nón lá để mang một hình ảnh rất ư là Huế. Song má tiếp tục may những cái áo đầm màu xinh và rực rỡ, đan những chiếc áo len dày hoa bướm trộn lẫn nhau và những khăn choàng ca rô xanh xanh đỏ đỏ. Cô bé tiếp tục mang những màu sắc rộn rịp đó. Sung sướng chảy ngọt ngào làm cô bé lim dim mắt. Đâu đây như văng vẳng tiếng đàn du dương của anh Trường trong một buổi chiều hè nắng vàng vụt tắt.

Những vì sao mới đến bao giờ cũng nhút nhát e dè, chơm chớp trên nền trời xanh thẫm thật dễ thương, cánh sao mong manh yếu ớt quá. Cô bé đâm lo lắng bâng quơ. Cô bé sợ sao chìm lịm đi, tội nghiệp và tuyệt vọng. Một cánh sao băng nhanh, mang theo một sự huyền bí cho cô bé. Cô bé tìm tòi nó, song cô bé ơi, làm sao tìm ra một vì sao mới đổi ngôi?

Tim cô bé nhảy thánh thót đều đặn. Cô bé khôn để ý ánh đèn sáng dưới nhà. Căn phòng này vẫn tràn ngập bóng tối. Cô bé nhìn những vì sao lu mờ nhất, cô bé thương chúng, tưởng chừng chúng đau mắt. Không như cô bé, đêm nào cũng nhỏ thuốc, mắt cô đen và trong sáng, vui vẻ và tròn như mắt chim bồ câu.

Hình như có tiếng má ba gọi dưới nhà. Song cô bé không nghe thấy gì hết. Cô bé tựa đầu lên thành cửa, mắt khép lại, êm ái. Gió đến ru cô bé bằng ve vuốt dịu dàng và bài hát ca tụng biển cả triền miên. Cô bé ngủ với vẻ mơ màng, nhưng không suy tư, không nghĩ ngợi. Tóc mềm chảy xuống hai vai. Không, tuổi thơ còn đó chưa bỏ đi, vì cô bé vẫn ngủ khi chờ bữa ăn tối, vẫn ngủ khi ngắm trời sao, và trong giấc ngủ, dường như cô mơ thấy mộng đẹp.


ĐOÀN PHƯƠNG MAI     

(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 151, ra ngày 15-4-1971)
 

Thứ Bảy, 13 tháng 4, 2024

Lòng Chân Thật

 

 Các em thân mến,

Ngày xưa, hồi thời Trung Cổ, bên Pháp, có một người lái buôn nọ một hôm đem hàng hóa đến chợ phiên bán và thu được nhiều tiền. Anh ta bỏ tất cả những đồng tiền vàng sáng chói vào trong một cái bao to lớn bằng da, rồi vui vẻ rảo bước về quê nhà.

Khi đi ngang qua thành phố A-miêng, cũng như thường lệ, anh ta ghé vào nhà thờ, quỳ trước tượng Thánh Mẫu, khấn lễ, chiếc bao da để bên cạnh. Lễ xong, anh ta dậy ra về, đầu óc còn mải mê một ý tưởng gì đó nên anh ta quên xách cái bao da đựng tiền bán hàng của mình.

Trong thành phố này, có một nhà trưởng giả cũng thường hay đến chiêm ngưỡng trước tượng Thánh Mẫu. Cũng hôm ấy, khi người lái buôn vừa bước ra khỏi nhà thờ, nhà trưởng giả đến quì ngay chỗ anh nọ vừa rời đi và và gặp chiếc bao đựng đầy tiền.

Ông ta ngạc nhiên, lẩm bẩm: Ai lại bỏ quên tiền nhiều như thế này? Mình phải làm sao đây? Cho mọi người biết, thế nào cũng có nhiều kẻ giả vờ vừa đánh mất, đến xin nhận lãnh.

Sau một lúc suy nghĩ, ông ta mang bao tiền về nhà và bỏ vào tủ cất cẩn thận. Đoạn ông ta lấy phấn viết trên cửa ngay trước nhà một hàng chữ to: Ai đánh mất vật gì, xin hỏi nơi đây.

Người lái buôn đi một khoảng đường mới sực nhớ vừa bỏ quên bao tiền trong nhà thờ. Anh ta hoảng hốt, chạy ngay lại chỗ cũ, hy vọng bao tiền vẫn còn ở đấy. Đến nơi, không thấy chiếc bao, ông ta bèn tìm ông mục sư để hỏi thăm, rốt cuộc cũng không được tin tức gì thêm. Chán nản, anh ta đi lang thang khắp nẻo trong thành phố.

Trong lúc đầy tuyệt vọng, may mắn thay anh ta lại nhìn thấy hàng chữ phấn trước nhà ông trưởng giả và ông này đứng cạnh đấy.

Người lái buôn mở lời:

- Thưa ông, xin lỗi ông, có phải ông là chủ nhà này không?

Người trưởng giả đáp:

- Thưa đúng, nhưng chẳng hay ông có việc chi?

Người lái buôn vội vã:

- Xin ông vui lòng có thể cho tôi biết ai viết hàng chữ này.

Người trưởng giả giả vờ: Có lẽ người nào đó đi ngang qua đây, rắn mắt viết đùa chơi. Vậy chớ ông bạn có mất vật gì chăng?

Người lái buôn than thở: Tôi vừa đánh mất cả gia tài của tôi.

Người trưởng giả làm như ngạc nhiên: Cả gia tài? Ông để ở đâu mà bị mất?

Người lái buôn bèn thuật câu chuyện và mô tả chiếc bao da đựng đầy tiền vàng.

Biết rõ đấy đúng là người vừa mất bao tiền, người trưởng giả bèn mời anh lái buôn vào nhà, mở tủ lấy bao tiền vui vẻ trả lại. Người lái buôn nhận thấy ông trưởng giả lòng đầy chân thật, đứng suy nghĩ một lúc: Thật mình không xứng đáng giữ bao tiền bằng ông này, rồi nói:

- Thưa ông, tôi xin biếu ông bao tiền này. Nó vào tay ông hữu ích hơn ở tay tôi. Xin ông nhận cho.

Người trưởng giả đáp lại: À, ông bạn, ông cầm lấy tiền ông, tôi không có quyền nhận.

Người lái buôn nói mau: Không, tôi không lấy đâu, tôi xin đi đây để lòng tôi được thanh thản.

Rồi anh ta bỏ chạy.

Thấy vậy, người trưởng giả vừa đuổi theo vừa la to: Ăn trộm! Ăn trộm! Bắt lại giùm!

Những người láng giềng nghe tiếng chạy nắm được anh lái buôn dẫn tới nhà trưởng giả, rồi hỏi:

- Người này lấy gì của ông?

- Dạ thưa, anh này cướp của tôi danh dự và lòng chân thành mà tôi quyết giữ trọn đời tôi.

Rồi người trưởng giả kể lại tất cả câu chuyện như vừa xảy ra. Những người đứng xung quanh, khi biết rõ sự thật, liền bắt buộc anh lái buôn nhận lạ bao tiền của anh ta.

Các em thân mến,

Thuật lại chuyện cổ tích trên, chúng tôi muốn các em rõ từ xưa, lòng chân thật bao giờ cũng được quí trọng.

Giả dối, lường gạt, gian tham là điều làm cho mọi người ghét và xa lánh mình.

Vậy muốn được cảm tình và sống thành công, các em lúc nào cũng phải chân thật.

 
Thân mến chào các em            
NGUYỄN HÙNG TRƯƠNG       

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 122, ra ngày 1-3-1974)

Thứ Năm, 11 tháng 4, 2024

Không Khí Bất Hòa Trong Gia Đình

 

Thư của em Đy Ly Quảng Tín.

Gia đình em có cha mẹ, anh hai và em. Hai năm nay có thêm chị dâu. Hồi đầu chị rất quí em và em rất thương chị. Nhưng mới đây từ khi chị có con, chị trở nên gắt gỏng, la em. Cha mẹ cưng và hiểu em nên có la chị, thì chị cãi rất hỗn hào. Anh hai đi lính, lâu lâu về thăm, em nói thì anh buồn, thấy thế, lúc sau này anh có hỏi em phải giấu sự bất kính của chị đối với cha mẹ. Chị cứ đòi ở riêng...

Trả lời: Xưa các cụ có câu thế này: "giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng". Ám chỉ rằng em chồng là dữ và ác với chị dâu lắm. Nhưng đấy là chuyện ngày xưa, ngày mà bố mẹ chồng có thể đuổi con dâu đi, bắt con trai phải bỏ vợ. Nay thì tiểu gia đình được tôn trọng hơn và cha mẹ ít có quyết định dùm cuộc đời con cái như xưa. Thành ra có nhiều khi con dâu lại lấn lướt cả mẹ chồng. Điều đó không nên. Đối với cha mẹ chồng phải kính trọng như cha mẹ đẻ, mới là con nhà có giáo dục đàng hoàng. Xét hoàn cảnh em, chị thấy dạo đầu chị dâu rất tốt. Chị chỉ mới đổi tính sau này mà thôi.

Chị nghĩ thế này, có lẽ chị ấy là người tốt, chị ấy về làm dâu trong gia đình em, chị đã xử sự tốt và hiếu thảo nên em cũng thương chị. Rồi vì anh em đi lính xa nhà lâu, chị cảm thấy bơ vơ, lại lúc sinh đẻ, ốm đau, tất nhiên là chị cảm thấy xa lạ trong gia đình em. Rồi một vài hiểu lầm nhỏ sinh giận dỗi nhau, nói nhau bằng những lời cay đắng. Cơn giận hết, lời cay đắng còn bên tai, nên mâu thuẫn ngày một trầm trọng. Lại thêm mỗi khi anh Hai về, anh Hai lại thấy gia đình bất hòa, chắc anh có rầy chị, lại khiến chị càng thêm giận dỗi và muốn đi ở riêng cho xong. Ý kiến đó lại làm mẹ giận, rồi cứ cái nhân giận dỗi nhỏ nẩy ra cái quả cãi lộn to, gia đình ngày càng thêm bất hòa.

Bây giờ, chị thấy chỉ có em là đóng vai trò hàn gắn được. Vì em còn trẻ tuổi, dễ thông cảm hơn và tính tình cũng vô tâm hơn. Em có thể giải thích để cha mẹ và chị xích lại gần nhau cho gia đình êm ấm, cho anh Hai em được yên lòng. Em nghĩ thế này nhé: là đáng lẽ em chỉ có 2 anh em thôi. Trời cho gia đình em một người con gái. Cha mẹ họ nuôi cho tới khôn lớn, rồi họ tới làm dâu nhà em, phụng dưỡng cha mẹ em, và trông nom nuôi dạy các cháu của em mang dòng họ em. Em nên đối xử sao cho chị ấy khỏi buồn tủi. Em nên tỏ cái độ lượng của người con trai, sẵn sàng cứu nguy phò yếu. Em cứ tỏ thiện chí đi vì em là con trai, lòng em rộng rãi hơn. Em hãy giơ bàn tay ra trước, và chị của em sẽ theo gương em mà tỏ thiện chí em ạ. Nếu cứ hòn bấc (nhẹ) ném đi, rồi lại có hòn chì (nặng) ném trả lại thì oán hận ngày một chất cao, sẽ không bao giờ chị em hòa nhau được, cha mẹ thêm buồn, mà anh Hai em khổ vì biết bỏ ai, bênh ai bây giờ. Đức Phật đã nói: "Lấy đức báo oán, oán ấy tiêu tan ; Lấy oán báo oán, oán ấy chập chùng". Người xa lạ ta còn tha thứ, sao trong tầm tay ta, là chị ta, mẹ của cháu ta, chị ta chết ta còn phải để tang, ta không sẵn sàng tha lỗi cho chị ấy phải không chú em của chị.


Chị ĐỖ PHƯƠNG KHANH     

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 43, ra ngày 18-6-1972)

Thứ Tư, 10 tháng 4, 2024

Tháng Tư Về Mênh Mông Nỗi Nhớ

 


 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Tháng ba nắng lụa bồng bềnh
Thôi thì giã biệt mông mênh tháng ngày
 
Nhớ về một thuở thơ ngây
Tháng tư nắng cháy vẫn đầy cỏ hoa
 
Thềm thu những buổi xế tà
Ngoại sàng hạt gạo ngọc ngà trắng tinh
 
Ngoại ơi ! Chan chứa bao tình
Mồ hôi, chân đất cho mình lớn khôn
 
Tháng tư ngọn cỏ héo hon
Nhưng bông lúa chín vẫn thơm mùa vàng
 
Ngoại về buổi chợ vừa tan
Ôm con bé bỏng muôn ngàn lời thương 
 
Trên cành bông bưởi còn vương
Màu bông trong trắng thơm hương tóc người
 
Vùi đầu suối tóc ngoại tôi
Ngoại như bông bưởi cho đời ngát hương
 
Mấy mươi năm những đoạn trường
Tuổi đời chồng chất gió sương nhuộm đầy
 
Vẫn không quên thuở thơ ngây
Quê xưa bóng ngoại áo bay chiều tà
 
Rồi đời cuốn hút tháng ba
Khói nhang con đốt la đà gió bay
 
Ngoài sân hoa bưởi rụng đầy
Cho con mường tượng những ngày ấu thơ.
 
                                                 Trần Thị Mỹ Liên
 

Thứ Hai, 8 tháng 4, 2024

Về Quê

 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Con trở về vườn hoa khoe màu mới
với mây trời giăng kín những đường quê
hương lúa chín ắp đầy lòng con trẻ
Lời dịu hiền con ôm cả, say mê

Mẹ đứng ngóng bên cành mai vàng ánh
Cha nóng lòng bên gáo nước chè tươi
và em nhỏ đang tưng bừng chào đón
quà anh về mừng tốt ngát hoa cười

Lối vào cũ, ôi! Lòng con sung sướng
cố hương đây thỏa những ước mong chờ
con quên hết những giấy bài sách vở
để rong chơi cho bõ những mộng mơ

Kìa đồng cỏ. Những giờ chơi đuổi bắt
kìa đồng ngô, ruộng lúa nở hoa lòng
con rộn quá chỉ biết đứng ngẩn trông
khi kỷ niệm đang ồn ào thức giấc.

                                   LƯU TOÀN BẢO NGỌC
                                    Trung học Đức Trí Tam Kỳ.
 
 (Trích tuần báo Thiếu Nhi số 35, ra ngày 23-4-1972)
 

Chủ Nhật, 7 tháng 4, 2024

Con Vắt

 

Nếu ruộng nước, ao hồ, đầm lầy, sông lạch ở đồng bằng thích hợp với đỉa thế nào thì vùng cao nguyên, đồi núi, rừng sâu heo hút kia cũng thuận lợi với vắt như vậy. Quả thế, hễ cứ nhắc đến núi rừng là ngoại trừ thú dữ ra người ta lại liên tưởng ngay tới vắt, vì họ có thể gặp chúng bất cứ lúc nào, nơi nào trên lộ trình xuyên sơn mà không sợ nguy hiểm.

Dù có sự cách biệt rõ ràng về địa điểm sinh sống, vắt vẫn được xếp vào nhóm Hirudinea tức là thuộc loài đỉa, bởi lẽ cả hai đều mang bắp thịt vòng Annelidae và là ký sinh trùng chuyên bám vào động vật để hút máu nuôi thân, tuy nhiên hình dáng, màu sắc lại chả giống nhau chút nào. Thật vậy, thân vắt nhỏ nhắn tựa con giun - nhiều khi chỉ bằng que tăm - lại hơi dèn dẹt thon thon đầu to đầu nhỏ chứ không tròn hẳn hay phình lên cục mịch như đỉa. Dĩ nhiên vắt cũng có hai hấp khẩu - hấp khẩu nhỏ là mồm dùng để hút máu con mồi, hấp khẩu lớn là hậu môn - nhưng những hấp khẩu này còn là phương tiện để di chuyển đó đây. Vắt chỉ dài hai , ba phân - họa hoằn lắm mới thấy con lớn tới bốn, năm phân - với những lằn ngang do lớp da mỏng bao bọc các bắp thịt vòng bên trong. Lớp da này khá dai, nhẵn bóng mang màu nâu nhạt phía trên lưng và sậm hơn ở hai bên cạnh.

Khác hẳn với đỉa ưa sống dưới nước, vắt chỉ hoạt động trên cạn. Chúng chuyên chui rúc bên dưới bao lớp xác lá, cành cây, rác rưởi mục nát để săn bắt côn trùng nhỏ bé gồm giun, dế, ốc, sên v.v... là những món ăn chính yếu khi chưa bám được vào động vật khác. Vì thế, nếu không quan sát kỹ trên đường mòn nơi rừng sâu, chắc chắn chúng ta khó nhận ra vắt. Loài này chỉ xuất hiện nhan nhản (ít nhất cũng phải hàng trăm con) đó đây mỗi khi chúng nhận thấy mặt đất bị khuấy động tức là có dấu hiệu thú vật hoặc người qua lại gần kề để đổ xô tới kiếm ăn. Ngay cả khi có những hạt mưa rào đổ xuống là y như rằng vắt ta rủ nhau lóp ngóp từ các nơi trú ẩn chui lên, để rồi lổm ngổm tìm chỗ khô ráo mò tới như kiểu chúng ta chạy nạn lụt vậy. Vắt vốn "kỵ thủy" nên đang lúc dò dẫm loanh quanh mà gặp phải vũng nước tức thì vắt rụt lại đoạn ngoắt sang bên cạnh, và nếu chẳng may phía này cũng có trở ngại, chúng thụt lui bằng cách xoay cả thân mình sang hướng khác.

Theo dõi sự di chuyển khật khà thoạt tiên chúng ngóc đầu trên lên, đoạn nhờ các bắp thịt toàn thân giúp đỡ, vắt ngoe nguẩy đảo đi đảo lại sau đó vươn mình đặt đầu này xuống đất, trong lúc toàn thân uốn cao cong lên theo hình vòng cung rồi mới nhả đầu dưới ra để lấy đà thu về đằng trước gần sát với đầu kia. Cách thức tiến bước của vắt chỉ có vậy, nghĩa là dùng ngay hai hấp khẩu để xê dịch chứ không bò như giun. Người ta cũng bắt gặp chúng leo cả lên cành cây, bụi rậm kiếm ăn. Điểm cần biết thêm là vắt còn dùng giác quan để nhận ra con mồi từ xa này sửa soạn tấn công.

Y hệt loài đỉa, khi đã may mắn "chộp" được con mồi, vắt ta bám thật chặt rồi tiết ra một chất nhờn với mục đích giữ kín các mép hấp khẩu lại. Chúng chỉ chực buông nhả "nạn nhân của chúng" khi nào đã no nê căng bụng, do đó, bạn đừng có dại rút ra trong lúc vắt đang say sưa hút máu kẻo vết thương sẽ tiếp tục rỉ máu mãi. Ở trường hợp này, bạn lấy ngay miếng giấy quyến dán vào để cầm máu cho tới khi máu khô mới thấm ướt rổi hẵng bóc.

Thường thường dấu vết loài vắt để lại trên đường di chuyển hay nơi nó vừa hút máu là một lớp chất nhờn óng ánh. Chính chất nhờn đó sẽ gây cho bạn ngứa ngáy khó chịu, và nếu da thịt bạn thuộc loại "dữ", bạn sẽ bị ghẻ dù đã săn sóc cẩn thận.

Khi hút máu, vắt thường âm thầm "làm việc" thật nhẹ nhàng êm ái đến nỗi con mồi khó lòng biết được hiện mình đang là nạn nhân của chúng. Đã vậy, vắt lại khôn ngoan khéo léo vô cùng. Chúng cố len lỏi để bám cho bằng được vào da thịt, dù chúng ta đề phòng cẩn thận. Nhiều binh sĩ kể lại rằng họ đã nhét chặt hai ống quần vào giầy "bốt" và buộc dây cẩn thận tưởng như con kiến cũng không chui lọt, thế mà sau khi về tới đồn trại, lúc cởi giầy ra mới thấy một vài chú chàng rất mập ú lăn kềnh xuống đất "ăn vạ" vì no máu quá lết đi chẳng nổi. Họ thắc mắc không biết chúng lọt vào được bên trong giầy bằng cách nào và từ bao giờ nữa. Nguy hiểm nhất là có thể vắt chui tọt vào tai, mũi rồi vì cùng đường, chúng ở lì luôn trong đó làm tắc nghẽn khí quản hoặc gây nhiễm trùng khiến các cơ quan đó sưng tấy lên vì máu ứ đọng, ấy là chưa kể trường hợp vắt rúc mãi rồi tiện đường trườn luôn lên óc như thiên hạ vẫn đồn đại. Đã có lần những toán cấp cứu tìm thấy một người bị thương vì tai nạn nào đó nằm chết trong xó rừng. Chung quanh và trên cả xác nạn nhân, hàng vạn con vắt lúc nhúc bâu vào đen kịt. Chắc hẳn vì kiệt sức anh ta ngã gục xuống để rồi trở thành mồi ngon cho vắt. Trong trận thế chiến thứ nhì (1939-1945) nhiều binh sĩ đồng minh hoạt động giữa các cánh rừng già bên Diến Điện, Trung Hoa, Phi Luật Tân, Mã Lai bị từng "sư đoàn" quân vắt tấn công gây trở ngại không ít.

Tóm lại, vắt là "sản phẩm" đặc biệt của núi rừng và ở khắp mọi nơi: Từ miền Nam Mỹ, Phi Châu tới Á Châu đều có chúng với hằng hà sa số con cháu sẵn sàng chờ đón con mồi.

Để diệt trừ vắt, người ta dùng loại thuốc dầu hóa học xoa lên chân, tay, mặt mũi và vẩy chung quanh lều (nếu ngủ lại trong rừng), vì gặp chất này, vắt vội vàng bỏ chạy cho nhanh kẻo chết.


ĐẶNG HOÀNG     

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 123, ra ngày 1-4-1974)

Thứ Sáu, 5 tháng 4, 2024

Dưới Mái Yên Sơn

Trời đã về chiều, ánh triều dương vừa khuất sau núi để lại một vừng sáng màu vàng ối. Ánh sáng tha thướt dạo trên cánh đồng ruộng dẫn tới làng Giao Cù. Trên con đê dọc theo làng, một cụ già thơ thẩn dạo quanh vừa nhìn sóng nước trầm ngâm, vừa vuốt nhẹ chòm râu bạc. Ông ta thường được dân chúng gọi là cụ Nghè Giao Cù... Thuở trước ông thi cử đỗ đạt nhưng không ra làm quan. Phía cuối bờ đê một thiếu nữ mảnh dẻ, đôi mắt đen láy tròn tròn như hai hạt nhãn, đôi má đỏ hồng dưới nắng chiều, miệng mỉm cười duyên dáng. Nàng quảy gánh trên vai nhẹ nhàng đều bước. Nàng trông thấy cụ già liền lễ phép hỏi:

- Ủa, cha ra đây làm gì vậy? Ở nhà có hơn không.

Cụ nghè Giao Cù cười khà:

- Con tưởng cha dại lắm ư? Thỉnh thoảng cũng phải ra đồng ngắm cảnh một chút chứ, ở nhà ngâm thơ mãi cũng chán.

Nàng con gái biết mình lo lắng hơi thừa bẽn lẽn nói:

- Thưa cha, trời chiều rồi, thôi cha con mình về, còn ăn cơm tối.

Cụ nghè gật đầu, theo chân con gái. Đến đầu xóm chợt có tiếng gọi:

- Nhị Nương! Nhị Nương!

Nàng quay lại, hai chàng thanh niên vận đồ nho sinh mặt mày thanh tú đủng đỉnh bước tới. Hai người cúi đầu thi lễ với cụ già:

- Chúng con xin chào thầy và chúc thầy mạnh khỏe.

Cụ nghè Giao Cù đáp lại:

- Tốt, hai con còn tưởng nhớ tới ta.

Hai chàng thanh niên là Đặng Như Mai và Trần Tấn, nguyên là môn đệ của cụ nghè.

Nhị Nương hỏi:

- Thế một năm nay các anh ở đâu? Ra làm quan hả?

Nàng nói câu sau cùng với dáng điệu diễu cợt. Đặng Như Mai liền chống chế:

- Ấy, ấy, cô nói gì thế? Bọn tôi đâu dám bôi nhọ ý chí của thầy.

Trần Tấn tươi cười:

- Còn tôi thì làm quan, song chưa chính thức...

Nhị Nương nóng nảy:

- Chưa chính thức là sao?

- Nghĩa là... nghĩa là nếu người An Nam giành lại độc lập.

Nghe đến đây Nhị Nương cười lên như nắc nẻ. Cụ Nghè thấy bọn trẻ đừng ngoài ngõ nói chuyện ồn ào bèn bảo:

- Thôi vào nhà mà nói chuyện, ở ngoài mất cả lý thú.

Nhị Nương nói:

- Hai anh vô nhà đã. Cha tôi mong hai anh lắm. Tối nay mời hai anh ở lại dùng cơm.

Dứt lời, nàng thoăn thoắt ra nhà bếp.

- Cách một năm nay hai con làm gì? - Cụ nghè hỏi.

Trần Tấn cung kính:

- Thưa thầy, con với Đặng huynh phong trần học võ, nghe đâu quanh vùng ta mấy đảng văn thân mọc lên như nấm...

Đặng Như Mai tiếp lời:

- Con có nghe hình như tên Trần Thượng Báo được bổ làm tri phủ Nam Định này.

Cụ nghè Giao Cù nheo con mắt, suy nghĩ. Giây lát cụ nói:

- Thằng Trần Thượng Báo tâm địa nhỏ nhen, tham lợi, lúc trước nó cùng học một thầy với ta. Hai bên có ít nhiều xích mích. Thằng ấy làm tri phủ ở đây chắc làm khó ta lắm. Tuy nhiên ta chỉ cho hai con chỗ này có thể nương thân làm việc lớn.

Ngưng một lát cụ tiếp:

- Lên chùa Yên Sơn, tiếp xúc với vị hòa thượng và nói rằng ta giới thiệu...

*

... Hai ngày sau, cụ Nghè bị niêm phong nhà cửa. Riêng cụ được lính của Thượng Báo còng tay mời về phủ.

Tối hôm đó trong màn đêm dày đặc, nền trời không trăng sao, ngôi Yên Sơn Tự vẫn im lìm bất động và đầy đen tối. Chợt một ánh đèn cầy le lói chiếu qua khe cửa trai phòng, một bóng người mảnh khảnh lách mình vào phòng. Trong phòng, hai người đang bàn luận liền ngửng đầu lên thảng thốt:

- Nhị Nương!

Bóng người chính là nàng con gái con cụ nghè Giao Cù.

Nàng nói:

- Đặng, Trần hai anh! Cha tôi bị Thượng Báo bắt rồi.

Đặng Như Mai khẽ bảo:

- Tin ấy chúng tôi rõ rồi song chưa có cách gì cứu giải. Trần đệ hãy mời hòa thượng lên thỉnh kế.

Trần Tấn vâng lời bước ra. Vị hòa thượng vừa cầu kinh xong. Nghe qua ý kiến họ Trần, hòa thượng mỉm cười:

- Cái đó tùy tráng sĩ, bần tăng đã già rồi, tâm bình lòng sạch, không thể bàn gì được xin tráng sĩ tha lỗi.

Trần Tấn đành trở về trai phòng. Ba người bàn luận khá lâu bên ngọn đèn cầy và sau đó, trai phòng bị bao trùm bởi màn đen dày đặc.

*

Chiều hôm ấy, nơi của phủ xuất hiện một cô hàng bán rượu xinh vô cùng. Lính trong phủ ra nhậu, chọc ghẹo cô hàng ỏm tỏi. Đám lính uống bất kể trời đất, uống nhiều trả ít cũng được, cô hàng cũng chả hỏi han đến. Bỗng một đứa kêu lên:

- Trời ơi! Thầy đội đến.

Thầy đội thấy lính tụ họp đông đảo liền ra oai quát hỏi:

- Ai cho bây ra đây uống rượu không phòng gian bảo mật hả? Bọn bây thằng nào ra uống trước hử? Nói mau.
 
Bọn lính khép nép sợ hãi, ma men bay hết, anh nào anh nấy mặt tái xanh hết. Thầy đội trợn dọc con mắt lên, rồi bỗng nhiên dịu xuống. Cô hàng xinh đẹp với nụ cười khả ái đã được thầy đội để mắt tới. Thầy đội cười khà:

- Nể tình cô em đây ta tha cho bọn bây. Đi chỗ khác.

Bọn lính lo sợ tản mác hết.

Thầy đội ngồi xuống cạnh nàng bán rượu tán:

- Chà, cô em đẹp vậy có muốn làm bà đội không?

Cô hàng duyên dáng vừa rót rượu vừa đáp:

- Dạ thưa thầy đội em đâu dám mơ cao. Dám hỏi thầy đội có bà nhà chưa?

Thầy đội cười hềnh hệch:

- Ờ có thì... thì cũng vậy, song nếu cô em về với ta, ta sẽ cho nàng làm chính thê... hề... hề.

Thầy đội xích lại gần, vòng tay mở rộng định ôm lấy cô hàng. Cô hàng khẽ lách mình, khúc khích nói:

- Khoan đã thầy đội, làm gì gấp dữ vậy. Để thủng thỉnh. Xin thầy đội cho lính phủ tới uống mừng.

Thầy đội ha hả cười:

- Được được! Chiều ý cô em. Bớ bọn bây, ta nể lời nàng cho bây uống rượu, uống đã thôi, mừng cho ta sắp đem cô hàng về nhà thờ phụng...

Bọn lính a lại. Thầy đội uống ừng ực. Cô hàng lấm lét nhìn, mỉm cười tinh quái. Uống thôi ngã ngửa, ngã nghiêng, đến khi trời tối thì nào lính, nào thầy đội đều bị rượu mê của cô hàng say như chết. Cô hàng không ai ngoài Nhị Nương cải dạng.

Màn đêm buông xuống, ba bóng người lướt nhẹ vào phủ. Đó là Đặng Như Mai, Trần Tấn và Nhị Nương. Ba người lẹ làng vào ngục thất. Lính phủ giữ ngục đã say mèm. Ba người cầm xâu chìa khóa trong mình thầy đội, mở cửa và cõng một thây người rồi biến mình vào đêm tối...

*

Làm như vô ý, một tên dân rách rưới, cực khổ ăn mặc theo lối nhà quê đi lui đi tới rồi quăng miếng vỏ bưởi vào ngực tên canh cổng. Tên lính canh nổi nóng quát:

- Thằng chó má quê mùa dám chọc đến ông hả?

Người nọ vẫn yên lặng quắc đôi mắt bướng bỉnh nhìn tên lính canh rồi mỉm cười khiêu khích... Tên lính canh tức ói gan hét lên:

- À, thằng này ưa đau đòn không thèm trả lời ông.

Tên lính canh giáng roi lên định quất người ấy, thì năm ba tên lính khác nghe ồn ồn chạy tới hỏi:

- Cái gì mà dữ vậy? Có đội Chánh đến nơi kìa.

Người ấy vẫn nụ cười ngạo mạn đầy khiêu khích:

- Tao đâu thèm nói chuyện với bọn bây. Chỉ khi nào đối diện với thượng quan tao mới nói... Bọn bây đừng hòng hỏi.

Đội Chánh thấy người ấy nói cứng liền bảo:

- Thôi, bọn bây trói nó lại cho kỹ rồi đem vào trình với thượng quan.

Bọn lính y lời và đem người ấy vào phủ. Thượng Báo nghe tin vội vã thăng đường, ngồi trước án thư vỗ bàn hét:

- Thằng kia, chỗ này để mày giỡn hả? Ai sai mày tới vuốt râu cọp? Khai mau kẻo chết.

Người ấy vẫn bình tĩnh:

- Bẩm quan, con thấy tấm bảng văn bảo rằng ai biết được chỗ ẩn của đảng Văn Thân thì thưởng tiền bạc. Tình cờ con biết được. Con liền vào báo quan. Song nói với tên canh cổng nhỡ nó xì xào thì mất hết bí mật nên con mới dùng kế, mạo hiểm cho giáp mặt thượng quan.

Ngồi trên án thư, Thượng Báo vuốt râu hể hả:

- Thế ngươi thấy bọn nó ở đâu?

Dạ bẩm thượng quan. Bọn nó thường qua lại chùa Vôi vào khoảng giờ Tý canh ba. Con không dám chắc nơi đó là sào huyệt hay không song con thấy chúng hay hội họp, bàn luận và đồn... đồn rằng...

- Rằng sao? Chúng nó nói gì?

- Dạ bẩm thượng quan tha tội con mới dám nói.

- Được, nói mau kẻo mang tội.

- Dạ, chúng bảo rằng là... là dẫu cho tên chó săn Thượng Báo ấy có làm chi nữa nó cũng lấy mạng.

Thượng báo tức uất lồng lộn lên. Một lệnh truyền ra, quản Dương, đội Chánh liền kéo rốc hết lính phủ theo tên điểm báo hướng chùa Vôi thẳng tiến.

Ngôi chùa vôi vẫn yên lặng, đoàn quân tiến vào trong, bên trong trống trơn chẳng có gì ngoài bệ thờ và cây đèn dầu leo lét. Bọn lính đi lục xét lung tung. Bỗng một mũi tên lửa không biết từ đâu bay đến cắm vào mái đã tẩm dầu từ trước. Lửa bắt cháy cả một vùng đỏ ối. Quản Dương và đội Chánh cùng ba quân chen lấn, đạp nhau chạy. Nhìn lại thì tên quân đã mất dạng...

Khi ấy tại tư dinh, Thượng Báo một mình mỉm cười khoái lạc. Lão ta nghĩ thầm: tiếng là mình bắt giặc, nhưng mình chả cần dấn thân vào đầu giáo mũi tên. Thành công mình hưởng trọn. Tên tay sai bán nước nghĩ đến ngày mai khi dẹp được đảng Văn Thân ở đây sẽ được thăng quan... Lão ta miên man với giấc mộng công hầu thì cánh cửa sổ bật mở, một bóng người nhảy vào kề lưỡi kiếm vào cổ Thượng Báo đanh thép nói:

- Mau nói bọn lính vệ bỏ khí giới xuống kẻo uổng mạng.

Hơi lạnh từ lưỡi kiếm toát ra làm lão rợn người. Người ấy vẫy tay ra ngoài cửa sổ gọi:

- Trần hiền đệ!

Một người khác cầm trường kiếm nhảy vào:

- Đặng huynh gọi đệ?

- Hiền đệ hãy trói bọn lính vệ lại cho ta.

Quay qua Thượng Báo, Đặng Như Mai lạnh lùng nói:

- Tạm thời cụ Thượng theo chúng tôi, khi nào rửa hận đất nước, trả thù tôn sư xong cụ sẽ được thả về.

Dứt lời, Đặng Như Mai xốc Thượng Báo lên vai.

- Bắt lấy thích khách!

Đặng Như Mai quay lại.

Trần văn Xuân con của lão Thượng Báo xuất hiện nơi ngưỡng cửa. Đặng Như Mai hạ Thượng Báo xuống, nhảy đến tống một ngọn cước vào bụng... Bịch. Trần văn Xuân ngã gục. Đặng Như Mai ôm Thượng Báo ra cửa:

- Nhị đệ! Cản hậu cho ta.

Hai người biến ra cửa... bọn lính canh đuổi theo... Một lằn kiếm lướt qua... hàng loạt người gục ngã. Quân canh chỉ còn rất ít. Ba lằn kiếm bay... Hai chàng tráng sĩ phóng mình lên hai con tuấn mã nhắm hướng Yên Sơn Tự...
 
*
 
Đêm ấy là đêm 17 vào tháng 4 năm giáp tuất (1874) niên hiệu Tự Đức 27.

Người ta đồn rằng Thượng Báo bị quấn giẻ, làm đuốc người trước bàn thờ tổ quốc và cụ nghè Giao Cù.


Tuấn-Khanh          

(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 66, ra ngày 1-4-1967)



Thứ Năm, 4 tháng 4, 2024

Chỉ Vì Chiếc Bóng

 

Ngày xưa, xưa lắm có một người đàn ông kia được phái đi chiến đấu dẹp giặc ở biên thùy, thuộc vùng mạn ngược.

Vào thời ấy các phương tiện giao thông thật khó khăn, trở ngại nên đã ba năm qua người ấy ra đi mà vợ anh ta ở nhà không được tin tức gì về chồng cả.

Nàng hết sức buồn khổ trong lòng, song cũng còn chút an ủi là đứa con thơ, đứa trẻ ra đời sau khi cha nó rời nhà tám tháng. Sự có mặt của đứa trẻ làm nàng thêm can đảm, đủ sức chịu đựng buồn khổ trong lúc xa chồng.

Thấm thoát mà thằng bé đã bi bô biết nói. Niềm vui về đứa con càng lớn thì nỗi khổ vì sự bặt tin chồng cũng tăng theo năm tháng. Tuy nhiên, nàng vẫn kiên gan chờ đợi, không một lời ta thán phàn nàn.

Một chiều kia, nàng ngồi may áo cho con bên giường, con nàng thì đang ngủ thiếp ; bỗng cơn giông bão tố nổi lên dữ dội, sấm nổ vang rền làm cho con nàng tỉnh giấc và vô cùng kinh sợ. Người mẹ vội vàng buông kim chỉ bước lại bế con và hết sức dỗ dành, song đứa trẻ không ngừng gào khóc. Chưa bao giờ nó tỏ ra kinh sợ đến mức ấy.

Bên ngoài trời đất tối sầm trong phút chốc, mưa như trút, thỉnh thoảng một tia chớp sáng lóe lên và gió... chao ơi! gió hung hãn gào thét như muốn cuốn phăng trọn gian nhà nhỏ bé của mẹ con người đàn bà cô đơn, khốn khổ.

Thiếu phụ sẽ sàng đặt con xuống và lần dò trong bóng tối, đốt ngọn đèn lên.

Thật là khó khăn, vì gió như tốc mái tranh nhà nàng, luồn vào tất cả các khe hở ở cửa lớn, cửa sổ, lửa chưa kịp bén vào tim đèn thì đã bị gió làm tắt ngấm. Gió day, gió tạt khắp các hướng, lồng lộn như một con thú bất kham.

Tuy nhiên, sau cùng thiếu phụ cũng đốt được ngọn đèn nhỏ bé, soi sáng gian nhà.

Nàng bế con lên và dịu dàng dỗ nó. Thằng bé chừng như thêm hờn giận, thêm hãi hùng vì mẹ đã đặt mình xuống trong bóng tối, càng khóc tợn. Thiếu phụ chỉ tay vào chiếc bóng mình in lên vách đất mà rằng:

- Con đùng sợ! Đã có cha con về kia! Cha con về thăm con đấy! Đừng khóc cha giận bây giờ!

Thấy chiếc bóng, đứa trẻ lấy làm thích thú, không khóc nữa.

*

Từ ấy, đêm đêm, những lúc nào con quấy, dỗi, người mẹ lại chỉ vào bóng mình mà dỗ dành con. Ngay cả khi nó không quấy, dỗi, thiếu phụ vẫn đùa bảo nó gọi cái bóng là CHA, bảo nó vòng tay cúi chào bóng mình trước khi đi ngủ.

Đứa trẻ quen dần với trò chơi ấy, đến nỗi mỗi chiều nó chỉ ngong ngóng chờ mặt trời tắt là giục mẹ đốt đèn lên để cha về chơi với nó. Nô giỡn chán chê với chiếc bóng mẹ cho đến khi díu hai mắt lại, nó vòng tay, cúi đầu bập bẹ:

- Thưa cha, con đi ngủ!

Rồi mới vào giường.

Trong lúc con yên giấc, thiếu phụ ngồi lặng lẽ cho đến nửa đêm, một mình với chiếc bóng của mình âm thầm tưởng nhớ đến người chồng biệt tích.

*

Chiến tranh chấm dứt, người đàn ông nôn nả trở về. Thiếu phụ nhận ra chồng từ xa, nàng vô cùng mừng rỡ song nàng chưa dám tin vào sự thật. Khi chồng đến gần, nàng không dám ngẩng nhìn anh, không dám nói một lời nào, cũng không có một cử chỉ nào tỏ ra mình mừng cả. Sự xúc động làm nàng nghẹn lời, sửng sốt, bàng hoàng. Nàng tưởng như mình cất tiếng lên, mình làm một cử động nhỏ nào thì chồng nàng sẽ tan biến như chàng thường tan biến trong những giấc mơ của nàng tự bấy lâu nay. Thiếu phụ quay mặt đi, lén lút lau hai giòng lệ nóng trào ra ràn rụa. Giây lâu, nàng mới nói bằng giọng kính cẩn thế này:

- Ba năm đằng đẵng em không bao giờ dám mơ đến ngày sum họp cùng mình. Có lẽ nhờ hồng đức tổ tiên lớn lắm nên mới có ngày nay. Vậy chúng ta phải tỏ lòng thành kính và biết ơn bề trên mới phải. Mình hãy trông con hộ, em xuống phố mua sắm chút đỉnh để làm lễ tạ ơn.

- Anh cũng nghĩ như mình. Chúng ta phải tạ ơn trên. Mình cứ đi, để con đó cho anh.

Chồng âu yếm trả lời vợ. Nàng tức thì làm theo lời chồng bảo.

Trong lúc vợ vắng mặt, người chồng tìm cách làm quen với con trai. Anh vô cùng sung sướng khi nhìn kỹ nó : nó giống anh từ cánh mũi, nét mày, nó giống anh đến cả vành tai, mầu tóc. Tóm lại, nó đúng là hình ảnh của anh ngày còn bé!

Anh đến gần con, run giọng gọi:

- Con trai yêu quý! Hãy lại đây với CHA nào!

Thằng bé giương to đôi mắt ngây thơ nhìn anh chăm chú và nó lùi dần, lùi dần vào bức vách, miệng không ngớt gọi mẹ, như cố tìm một sự che chở của mẹ nó trước thái độ cầu thân của người lạ mặt đột nhập vào nhà.

Người cha không phật ý chút nào. Làm sao anh lại có thể trách con?

Từ khi mở mắt chào đời cho đến nay, con anh chưa hề một lần thấy mặt anh kia mà! Nó làm mặt lạ với anh là phải, nó có lỗi gì đâu? Anh kiên nhẫn dỗ dành con, tìm đủ cách làm quen với nó. Thằng bé vẫn không chịu để cho cha bế, nó đứng yên một chỗ, tuy đã có vẻ bớt sợ, nhưng vẫn giữ vẻ xa cách, lạnh lùng.

Anh kêu lên trong lúc sà xuống bế bồng con vào lòng, hôn tới tấp vào mặt, vào má nó:

- Nào xem! Chú bé có chịu nhận cha không...

Nhưng anh xiết bao kinh ngạc : nó giằng khỏi tay anh, miệng nói:

- Không! Ông không phải cha tôi! Ông không được hôn tôi!

Người cha bàng hoàng khi lọt tai lời con trẻ, song còn cố giải thích:

- Con còn bé nên chưa biết đó thôi. Cha chính là cha con. Cha đi dẹp giặc phương xa nên con không gặp cha. Nay cha về...

Thằng bé một mực cải chính:

- Không! Ông không phải cha tôi. Ông nói dối. Cha tôi không bao giờ về ban ngày. Cha tôi chỉ về lúc lên đèn.

Người cha thắt ruột lại khi nghe đến đó, anh choáng váng ngồi phệch xuống, lòng bời rối. Có thể như thế được ư? Vợ anh đã phản bội anh ư? Thằng bé điềm nhiên tiếp:

- Tối cha tôi mới về với tôi. Cha tôi không bao giờ nói gì cả. Cha tôi chỉ đi theo bên mẹ tôi. Mẹ tôi làm gì thì cha tôi làm theo : mẹ tôi đi ra cha tôi đi ra, mẹ tôi đi vào, cha tôi đi vào, mẹ nằm cha cũng nằm, mẹ đứng cha cũng đứng... Ông đừng nói dối, phỉnh tôi.

- Con ơi! Cha đây chính là...

Giọng người cha nghẹn ngào như sắp khóc. Bé tiết lộ thêm:

- Khi nào tôi vòng tay thưa cha đi ngủ thì mẹ tôi cúi xuống hôn tôi, bấy giờ cha tôi cùng cúi xuống...

Người đàn ông ù cả hai tai. Anh không nghe gì nữa. Người ta chả thường nói rằng: "Đi hỏi già về nhà hỏi trẻ" đó sao? Con chàng nói thật. Nó làm gì biết bịa chuyện? Mà bịa làm chi? Anh không khóc được, tuy lòng đau xót vô ngần.

Niềm vui sum họp tắt lịm như ngọn đèn trước gió.

*

Người mẹ không mảy may hay biết gì về những lời ngây ngô của con trai, song nàng linh cảm như một bất hạnh đang đe dọa hạnh phúc của mình khi tất tả trở về nàng gặp ngay thái độ lầm lì, khó hiểu của chồng.

Tuy nhiên, nàng cố trấn áp mối lo sợ vẩn vơ, tự an ủi rằng: "Chắc anh ấy đi chinh chiến phương xa về nhọc mệt, và những ngày vất vả, đương đầu với tử thần làm anh ấy bẳn tính, không nên quan tâm làm chi".

Nàng lặng lẽ, cắm cúi lo nấu nướng mọi thứ, xong đâu đấy nàng bày biện lên bàn thờ gia tiên rồi mời chàng đến làm lễ.

Trong nàng hồi hộp lôi từ đáy rương lên chiếc áo dài mới tinh khôi - chiếc áo mà nàng chỉ mặc một lần trong lễ cưới và suốt thời gian chồng vắng mặt nàng chưa một lần ngắm lại - thì chồng nàng đã không chờ vợ mà đến bàn thờ đốt hương, đèn, thì thào khấn vái rồi lạy trước một mình. Đoạn, anh cuốn ngay chiếu lại, như có ý không cho vợ được đến làm lễ tạ cùng mình.

Thiếu phụ tưởng mình đang sống trong ác mộng : nàng hết sức tủi thân và đau đớn song nàng vẫn cắn răng chịu đựng, nén khóc dọn bữa cho chồng ; rồi lầm lũi vào phòng gấp áo lại cất vào đáy rương như cũ.

Cơm lạnh ngắt trong bát, những miếng mỡ đông lại dưới sức lạnh của một chiều đông.

Gã đàn ông không thốt một lời, mặc thêm cái áo ấm rồi băng mình ra khỏi cửa. Thiếu phụ kinh hoàng trước hành động kỳ quặc của chồng. Nàng muốn chạy theo níu anh lại, gạn hỏi nguyên do, bắt anh giải thích rõ ràng... Song nàng không cử động nổi, hai chân nàng như bị dán cứng xuống nền nhà! Và bởi quá tủi nhục, đau đớn nàng không nói nên lời trước cách đối xử tàn nhẫn của chồng.

Bao nhiêu buồn khổ được dịp tuôn ra... nàng gục đầu vào tay rưng rức khóc - Phải! Trong bao nhiêu năm tháng nàng đã cố gắng cầm nước mắt - nàng khóc đến cạn cả lệ và sau cùng, nàng ôn con, đoạn mím môi, nghiến chặt răng, chạy thẳng ra sông. Nàng quyết trầm mình xuống đó, nhờ giòng nước rửa sạch oan khổ của mình!

Nghe tin dữ, người chồng quày quả trở về. Anh không thể bỏ con một mình được. Anh không chút hối hận tiếc thương người đàn bà xấu số. Anh dửng dưng trước xác chết của nàng, anh nghĩ rằng nàng đã quá xấu hổ phải lấy cái chết đền tội cùng chồng, thế thôi.

Đêm đến, anh đốt đèn lên, ru con ngủ. Bóng anh in lên vách đất và... anh kinh ngạc xiết bao khi đứa trẻ reo lên vui vẻ:

- Kia! Chính cha tôi! Cha tôi đã trở về!

Tất cả sức mạnh trong người anh như tiêu ta trước lời con. Anh bủn rủn cả tay chân, vô cùng hối hận vì biết mình lầm, ngờ oan cho vợ, người vợ mà hơn ba năm anh vắng mặt, vẫn một dạ trung thành.

Anh kêu gào, khóc lóc mong linh hồn vợ thấu hiểu cho anh, anh không ngớt van xin nàng tha tội. Anh bỏ ăn, bỏ ngủ. Anh đặt bàn thờ trên bờ sông, nơi nàng tự tận, ngày đêm ở đó, thương nhớ không nguôi. Anh thề sẽ sống như thế suốt đời, không tục huyền cho trọn tình cùng người quá cố.

Một hôm, vua Lê Thánh Tôn vi hành ngang đó, trông thấy ngôi đền nhỏ dân chúng và người chồng đặt thờ người thiếu phụ đoan chính ấy, Ngài lấy làm thương xót, bèn đề tặng mấy câu thơ:

"Nghi ngút đầu gành tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương?
Ngọn đèn dù tắt đừng nghe trẻ
Làn nước chi cho thiếp phụ chàng?
Chứng giám có đôi vầng nhật nguyệt
Giải oan chi đến mượn đàn tràng?
Qua đây mới biết nguồn cơn ấy
Khá trách chàng Trương quá phũ phàng!"


MINH QUÂN          

(Trích từ bán nguyệt san Thằng Bờm số 22, ra ngày 1-3-1973)




oncopy="return false" onpaste="return false" oncut="return false"> /body>