Thứ Sáu, 26 tháng 4, 2024

Trên Quê Hương Ta Yêu Dấu

 

1
 
Tôi từ bỏ ruộng đồng đi lên mạn đê cao, đưa mắt nhìn sang bên kia sông. Nước thủy triều đang dâng lên theo con trăng mười bốn. Một vài chiếc thuyền tấp vào bờ. Bãi cói lấm láp bùn, đâm tua tủa lên không. Sóng gió dồn dập vỗ vào bậc đá bắc ra lòng sông. Tôi lang thang tìm vào một mái nhà cỏ làm quán nước ở bến đò. Mùi cám rang vàng ngậy và mùi lá gói bánh còn vương lại đâu đây. Con đường nhỏ về làng thưa thớt một vài người đi soi ếch nhái, ngâm lờ ban đêm. Cảm giác bâng khuâng và bình dị của người dân quê trong lũy tre xanh. Quê hương tổ quốc thân yêu nhất của tôi lúc này là đây. Suốt đời thơ ấu, tôi chưa bao giờ phải nghe tiếng súng. Tôi nhìn thấy cuộc đời thơ ngây và tuổi trẻ của đàn em lối xóm. Mẹ tôi may những chiếc áo chúc-bâu nhuộm nghệ vàng khè làm phần thưởng cho đứa con xưng tội lần đầu. Sân nhà tôi đêm trăng mười sáu có lũ con trai bẻ cành dâu chơi trò tìm dấu. Tôi chạy và ngã sưng môi, máu chảy loang ra vạt áo mới may. Và khuya lắm tôi mới dám  đi ngủ. Mẹ tôi soi đèn bắt muỗi cho tôi và tôi trộm nhìn thấy người nhíu mắt có vẻ không vui. Ai lớn lên cũng thấy đời mình có nhiều thay đổi mới. Tôi không mặc áo màu vàng nghệ nữa và trên đầu tôi không có hai trái đào lơ thơ nữa. Tôi nhìn thấy lũ con trai của bác Dương, người lính theo Tây từ Hải Phòng về. Chúng nó văn minh từ cái đầu, đôi dép cao su và bộ quần áo màu nhà binh. Tôi tự thấy mình không đáng đi chơi với chúng nó. Rồi khi dân vùng lân cận lánh nạn ở nhà tôi, tôi bắt đầu thấy cuộc đời mình nhuốm một chút không vui. Đêm tối, lũ trẻ hàng xóm đi ngủ sớm. Tôi men ra mấy đống rơm ở trước nhà ngồi hóng gió và nhìn đạn lửa bay xẹt trên trời cao. Tôi lo sợ cho anh Hưng phải đi vác súng đạn cho bọn lính Tây từ dưới bến đò lên đồn Kha Lý. Con chó mực sủa một hồi dài rồi trở vào thềm cao đi ngủ. Căn nhà năm gian im lìm tĩnh mịch. Mẹ tôi sửa soạn bữa cám heo sau hết. Tôi lại ngửi thấy mùi cám cháy, khê thơm phức pha lẫn với mùi lá bèo và những rêu rong chín ngút. Khi ấy thầy tôi từ xóm Đông về nhà. Cánh cổng bằng tre khép lại. Không khí ấm cúng ở bên trong. Chiếc đĩa dầu lạc đã cạn và ngọn lửa tàn dần. Chỉ còn một ngọn đèn chầu leo lét trên bàn thờ. Tôi ôm lấy hai ống chân thầy tôi để đánh đu và người bế tôi trên tay như đứa trẻ còn nhỏ lắm. Và ngay đêm ấy, không biết tôi có ngủ được hay không. Giấc mơ kinh hãi làm tôi bỏ nhà đi sang bên kia sông. Nơi đây là một đồng cỏ bao la bát ngát chạy dài tới chân trời xa tít. Đi hết cánh đồng lúa thơm hương là làng Cổ Am có nhiều nhà ngói cây mít. Những con đường cát mịn bò ngang dọc như một thành phố nhỏ. Mẹ và chị tôi thường đi đò sang cất hàng xén ở đây. Tôi biết những người dân Cổ Am phong lưu lắm. Họ ăn chơi như bậc vua quan vương giả. Về sau khi máy bay oanh tạc quê hương ấy, tôi mới biết nơi đây là lò lửa cách mạng. Cả làng ra tro và người ta đổ xô sang làng tôi. Ngày đêm  lửa đạn ngút trời. Người ta bồng bế nhau đi tìm nơi tạm trú. Bác Văn có người con gái tên là Nụ bị chết đuối trong khi chạy giặc. Sang đến nhà tôi, bác còn kêu gào như mụ điên. Bác chửi lũ Tây thực dân cướp con gái bác. Chồng bác mỗi khi được về thường đem theo hộp thịt bò và mấy ổ bánh mì. Bác mong chóng bình an, lũ Tây đi nơi khác để dân làng trở về lập nghiệp, khói lửa không còn nghi ngút nữa và ruộng cầy bắt đầu xanh um. Lũ trẻ con được ra đường hóng mát.

Từ khi bờ sông bên kia trở lại nếp sống bình thường tấp nập, nhà tôi vắng vẻ hơn. Bác Văn thuê đò trở về làng. Năm sau chiến tranh tràn tới bên này sông, những vườn cây trơ trụi. Những con đường vỡ toang nứt rạn. Tôi cảm thấy quê hương tôi bắt đầu đau xót. Lúa thôi lên đòng đòng. Bầy trâu ngơ ngác bên bờ nước ao tù. Nắng gay gắt hơn. Hàng quán trên đê vắng người. Chỉ có những người mũi lõ, tóc quăn nói chuyện bô bô, cười giỡn trong đó. Chị tôi về nhà không dám bán hàng nữa. Đêm tối mới thực là buồn tẻ. Tiếng giầy xăng-đá nện cồm cộp trên đường. Chó thi nhau đổ xô ra sủa. Mùi rượu nồng nặc bay theo gió vào trong xóm. Tôi thường nằm trong xó nhà, trùm chăn lên tận mắt để khỏi nhìn thấy những lỗ thủng trên mái nhà. Có đêm nào đó, tiếng súng nổ ở xóm Đông và ngày mai người ta thấy đám ma anh Tạo. Anh sợ Tây quá nên nấp vào chuồng trâu và bị bắn vỡ sọ. Vợ anh không dám khóc thành tiếng. Chúng tôi cầm cờ tang cho anh và khi hạ huyệt tôi thấy chị Tạo ngất đi.


2

Tôi ước ao một đêm nào không xa lắm, được làm con đường làng cát mịn. Không có một tiếng giầy đinh vang rền. Không có lũ tù nhân oan uổng bị người ta bắt đi, bắn thả trôi sông. Nhưng là một con đường bé nhỏ, bình yên có nhiều bóng cây mát dịu chẳng hạn cũng như một vài cụm dứa dại, một hai cây soan hoa tím hay hai bên trồng nhãn lồng rất ngọt. Mùa thu vàng chín, có những con chim đến tìm ăn và làm tổ. Đứng trước sự bất lực của mình, tôi cảm thấy mình càng nhỏ bé vô tận. Làm sao được vùng lên một chút như con sông kia cau mặt hờn giận. Làm sao được như hàng cây thiếu nước mà chết rũ, cũng là thái độ hờn căm. Ít ra được như loài chim xứ lạnh bay đi tìm đất sống. Nhưng không may tôi vẫn chỉ là con đường, một con đường phải thấy, phải nhìn, phải cam chịu định mệnh đau thương. Tổ tiên tôi, dòng tộc tôi, quê hương, dân tộc da vàng Việt Nam của tôi bị thiệt thòi nhiều quá. Cho đến hôm nay, tôi vẫn làm thân phận một con đường, vô tri vô giác của sỏi đá. Tôi điếc và đui mù què quặt, không còn hơi thở, cảm thông và hành động để phản ứng nữa.

Buổi chiều trăng đã lên rồi. Tôi ra bến sông nhìn về bên kia có đồng cỏ xanh tươi. Lũ mục đồng thưa thớt về thôn. Gió chiều từ mặt sông đưa lên mát quá, tôi nghe tiếng rì rào ở bên tai và ngửi thấy mùi bùn đất phù sa nồng nặc. Rặng lúa nằm rạp như tín đồ sám hối trong gian nhà thờ ở quê tôi. Từ xa lắm có tiếng chuông đồng trầm trầm cung kính. Lời kinh vực sâu xót xa cho người ra đi yên nghỉ đời đời. Tôi nghĩ đến anh Tạo, cô Nụ và biết bao anh em đồng bào tôi nằm xuống. Lòng đất này còn chuyển động và mùa thu ngọn cờ mình nhuốm máu. Ngày đó cây sậy bên sông cũng âu sầu đau khổ và tổ tiên còn hiện về như bóng ma. Con đường này không có vết chân người đi và tất cả là rừng hoang rậm rạp. Tôi bỗng vùng chạy về nhà. Gió bay. Tóc bay. Lá bay đầy đường. Cánh cổng tre khép lại. Thầy mẹ tôi quây quần bên bếp lửa. Nồi cơm nếp vừa sôi. Tôi chờ trăng lên cao để ngủ qua đêm và ước ao không mơ thấy con đường mấp mô vết đạn.


THỤY ANH             
(Trích tuyển tập truyện ngắn 
 "Bè Lau Qua Sông", sắp xuất bản)

(Trích từ bán nguyệt san Ngàn Thông số 2, ra ngày 20-5-1971)

Thứ Tư, 24 tháng 4, 2024

Nhà Tôi

 

 

 

 

 

 

 

Nhà tôi nằm trên vùng cao nguyên
Cỏ cháy đồng hoang suốt một miền
Mỗi bận về xuôi qua An Lợi
Nắng úa nghiêng buồn rơi mái hiên

Nhà tôi từ khi xưa đơn côi
Ấp ủ tình thương cả cuộc đời
Che chở mỗi lần mưa xuống muộn
Kiếp nghèo theo nhịp thời gian trôi

Nhà tôi ôm giữ trọn linh hồn
Khuyên nhủ mọi người biết luyến thương
Xứ sở dù trơ thân sỏi đá
Nhưng lòng vẫn đậm nét quê hương

Nhà tôi phong kín chuyện buồn vui
Kỷ niệm đà vương vấn núi đồi
Những buổi chiều tàn em hong tóc
Thả diều theo gió lên chơi vơi

Nhà tôi từ khi lửa chiến chinh
Nước mắt nhòa theo bước viễn trình
Mẹ khóc run bờ vai gầy guộc
Ôm đàn con dại sớm điêu linh

Nhà tôi giờ đây biết ra sao
Tường cũ nền rêu chắc nhạt màu
Xin gửi hương yêu về cố quận
Cho lòng vơi bớt nỗi niềm đau.

                                 NGỌC THÙY GIANG
                                            (hoa rừng)

(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 31, ra ngày 25-8-1965)

 

Thứ Ba, 23 tháng 4, 2024

Gieo Mạ


Phương nhìn đàn bé tung tăng trên đồi. Tuổi thơ của lũ trẻ thật ngoan hiền, như cỏ cây màu xanh, như nắng nhàn nhạt chiều lại chiều trở về trên xóm lá. Phương thương nhiều đến những tuổi nhỏ ở xóm làng hiện tại. Tuổi ngây khờ thỉnh thoảng trở về trong đêm trăng say sưa trong lòng nội nghe kể chuyện đời xưa hay trong những đêm, buổi sáng, buổi chiều, chúng vui say như quên đi những đêm đen dài có tiếng súng nổ, có ảnh hình hỏa châu len lén qua những khe vách hở.

Thằng Phong là người quản trò trong những buổi sinh hoạt bởi nó có khiếu về ca hát, lại thêm có tài khôi hài và tánh nhanh nhẹn hoạt bát! Thằng Phong đang dạy cho chúng bài "nhảy lửa". Điệu bộ nó thật dễ cười. Miệng nói tía lia, tay cử động lên xuống như phụ họa cho lời nói. Tiếng hát của lũ trẻ thật trong và cao. Những đám mây đủ màu chừng như ngừng lại. Cỏ cây dường như im lặng nghe tiếng hát tuổi thơ trên xóm làng, trên quê hương chinh chiến...

Phương nhớ lại lúc chàng vừa được đổi về đây. Những ngày đầu tiên khuôn mặt của thằng Thanh, thằng Phong, Hùng, Dũng, sao xa lạ. Trên khuôn mặt nám đen và đầy muối sự ngạc nhiên của chúng trở thành hững hờ chừng như đã quen đi sự thay đổi thầy, cô mới. Phương đã kêu trả bài và điều làm cho Phương thoáng hiện nét sâu xa khi gần hết lớp đều đưa tay xin trả bài. Sổ ghi điểm không có đến một con số không. Chính điều đặc biệt nầy, chính sự siêng năng, sự bình thản của chúng ở ngày đầu học thầy giáo mới. Phương thấy vui vui và nghĩ ra đến ý định cho những đứa học trò ngoài giờ học, cho chúng sống một đời sống tập thể, một đời sống mà ở học đường, mà ở gia đình (dầu rằng có những đứa phần đông sau giờ học lại phải phụ giúp cha mẹ những việc nặng nhọc như chài lưới, như đi biển... vân vân...) ít ai nghĩ tới. Ý chí của chàng đã được thỏa mãn, lũ học trò miền quê nước mặn nầy đã ham thích, thật khoái chí. Khi chàng dạy cho chúng những bài ca sinh hoạt cộng đồng, phương pháp đo bóng cây, đo sông ngòi, dạy cho chúng biết tự giác trước những sự lầm lỗi và chàng chắc rằng trong thời gian từ ngày chàng được đổi về đây đến nay, chúng đã làm cho gia đình, cha mẹ vui mừng không ít.

Những đứa học trò dễ yêu dễ mến của Phương có nhiều lần thố lộ với chàng về hoàn cảnh, về gia đình, về ngôi trường, những ông thầy trước. Điều làm cho chàng phải suy nghĩ nhiều hơn, suy nghĩ những ba bốn ngày đêm khi một ngày kia thằng Hùng nói nhỏ với chàng:

- "Thầy ạ! Hình như ông hiệu trưởng không ưa thầy khi thấy thầy dạy cho chúng em về đời sống tập thể. Và những ông thầy nào mà ổng không thích là không sớm thì muộn cũng bị ổng đưa đi mất".

Phương không sợ ông hiệu trưởng phải đưa chàng đi vì phương pháp giáo dục quá mới đối với đám học trò của chàng. Chàng sẽ rất vui mừng khi hay tin đó (được xa rời ngôi trường làng xiêu vẹo và quê nghèo nầy là sướng rồi) nếu chàng không sống chung với đám học trò trong những ngày vừa qua. Chàng hiểu ra rằng tại sao sự ham thích học bài, sự siêng năng của đám học trò, thì ra sự khao khát được học, cùng với sự mất an ninh của xóm làng nầy khiến cho những ông thầy trước đây dạy quơ quào rồi lại ra đi, ra đi như cơm bữa... Và Phương lại thương lũ trẻ thật nhiều trong những ngày còn ở nơi đây...

*

Lửa cháy từ đầu xóm. Đạn bay như mưa. Tiếng khóc la thảm thiết. Lửa nuốt dần những căn nhà tranh làm tỉnh những giấc ngủ quên thôi của dân trong xóm. Tiếng đại bác ngoài tỉnh dội về nghe ầm ì. Dân chúng lao xao. Mãi cho đến khi phi cơ bay vần vần. Tiếng đạn bớt đi. Phương lao mình cầm bó đuốc cháy sáng chạy về phía đầu làng. Dân chúng đang chữa lửa. Thằng Bé, đứa học trò của chàng nằm thở thoi thóp trên manh chiếu ngoài sân. Vết thương hơi sâu, máu chảy nhiều, chàng xé nhanh chiếc áo mặc trên người rồi băng cầm máu lại cho đứa nhỏ. Chàng áp dụng những điều đã học hồi còn đi trong phong trào Hướng Đạo. Sự đau đớn đến quặn thắt của chàng khi nhìn thằng Bé nhắm mắt lại, thở mệt nhọc và bặm môi nín đau. Chàng vỗ về:

 
- "Rán chịu đau chút đi Bé. Thầy đây nè, rán chịu đựng đi. Thầy kêu xe chở Bé lên bệnh viện trên tỉnh ngay".

Đôi môi thằng bé mấp máy muốn nói điều gì nhưng không nói nổi. Máu ngừng chảy ra ngoài. Phương nín lặng lo âu mãi đến khi chiếc xe lôi, bó đuốc sáng rực chạy nhanh trên đường lên tỉnh... Phương quay lại, những đứa học trò của chàng đang tạt từng thùng nước vào ngọn lửa đang cháy. Yếu ớt dần rồi tàn lụn ; khói bốc lên nghi ngút. Trời dần sáng. Phương trở về nhà với sự mệt mỏi trong người.

Sáng hôm nay Phương đi dạy không nổi nữa. Chàng ngã bịnh luôn. Nằm trên giường Phương nghĩ tới thằng Bé không biết có bớt hay không. Chàng nhớ đến đêm kinh hoàng vừa qua. Phương lo sợ khi mình không đi dạy được. Không phải chàng sợ ông Hiệu trưởng mà bởi vì sự lo âu của chàng đối với những đứa học trò. Người dạy trước đã không chịu dạy cho kịp, chàng theo sau, chàng phải dạy gấp rút, dầu cuối năm nay phần đông không thi vào Đệ Thất trên tỉnh được vì lớn tuổi, vì hoàn cảnh gia đình. Chàng muốn mình phải làm tròn bổn phận, để đến khi ra đi khỏi phải ân hận. Phương nghĩ đến lúc phải rời khỏi nơi đây, với niềm luyến tiếc, với những kỷ niệm thật miên man. Chàng sẽ cố gắng áp dụng phương pháp đó vào những nơi tương lai chàng sẽ được đổi đến. Những mầm non sẽ là sự vinh quang cho quốc gia sau nầy. Sự mệt mỏi đến dần dần với Phương trong giấc ngủ...

..................


Ánh nắng xuyên qua cửa sổ. Căn nhà nóng nực quá. Phương không trọn được giấc ngủ. Chàng uể oải ngồi dậy đi rửa mặt. Bỗng chàng thấy trên bàn học, một gói bự bằng giấy nhựt trình. Phương tháo ra xem, thì ra là của học trò chàng gửi. Sao chúng nó biết chàng bệnh mà lại thăm? lại bày đặt gửi quà nữa. Dưới chục cam đầu mùa, chàng thấy một cái bao thơ:

"Kính gởi Thầy"

Phương xé ra xem. Chàng đọc:

"Thưa Thầy

Hay tin thầy bệnh , chúng em vội đem lại cho thầy vài trái cam ; cho thầy hay tin là chúng em đã rành rẽ về bài hát, về cách thức cắm trại, về nghi thức lửa trại cũng như về những trò chơi, bài hát sinh hoạt. Cho nên vào ngày... tức là Chúa Nhựt tới, chúng em mời thầy đến chung vui với chúng em. À thầy hiệu trưởng sáng này mặt hầm hầm có nhờ chúng em mời thầy lại cho ông ta nói chuyện đấy.

Trước khi dừng bút, chúc thầy mau mạnh để sớm sinh hoạt và lo liệu phụ với chúng em ở kỳ trại tới.

Chào thầy
Toàn thể lớp Nhất 1".

Hàng chữ mực tím viết nắn nót cẩn thận dễ yêu. Phương nghĩ đến lời mời của ông hiệu trưởng và "sáng này mặt hầm hầm" nên vội vã thay đồ lại đằng trường...

Bước vào văn phòng. Dưới cặp kính cận, dầu Phương đã lễ phép thưa:

- "Ông đòi tôi đến có việc chi vậy?"

Ông vẫn lặng yên không nói gì, làm như không nghe lời của Phương. Phương bảo thầm trong bụng: "Hắn ta khi người quá. Mình về cho rồi". Nhưng ông ta đã kêu Phương lại và hỏi giọng gay gắt:

- "Sáng nay sao anh không đi dạy?"

Phương cố gắng ôn tồn:

- "Dạ tại tôi thấy mệt mỏi trong mình".

Ông hiệu trưởng đập bàn thét:

- "Anh mệt sao anh nghe tôi mời đã vội chạy lại ngay được vậy? Anh tính bợ đỡ tôi để tôi tha cho tội làm biếng dạy học của anh ư?".

Sự tức giận đến nóng nảy, Phương uất ức:

- "Tôi không bợ đỡ ai hết, tôi lo cho học trò tôi mà thôi. Còn sự mệt nhọc là tại đêm rồi, tôi có đi phụ chữa cháy nhà cho dân trong làng rồi tôi về ngã bệnh luôn, còn sự mà tôi cố gắng lại đây sợ ông mích lòng mà hậu quả là tôi sẽ..."

- "Sẽ bị đổi đi phải không. Tôi sẽ làm giấy ngay bây giờ để anh không còn dạy đây nữa. Kể từ giờ phút này anh nghe chưa".

Phương phun bãi nước bọt ngay lên bàn bureau của ông hiệu trưởng rồi ra đi. Tiếng vọng lại: "Tôi sẽ ra đi ngay chiều nay. Ông nghe chưa".

Buổi chiều hôm đó, Phương ra đi, để lại cho những học trò thân yêu hàng chữ:

"Thầy ra đi nhưng không phải là không nhớ mấy em. Tương lai của tuổi các em đã được thầy nghĩ thật nhiều, qua những ngày sống tại đây. Thầy ra đi với sự hối hận đã không nhìn được ngày ngày các em vui chơi ca hát ở trên đồi, ở bãi bể hay siêng năng trong lớp học. Những kỷ niệm, những kinh nghiệm trong cuộc sống, trong phong trào Hướng Đạo hay ở ngoài đời, thầy đã chỉ bảo lại cho các em rồi. Các em tinh thần là người Hướng Đạo rồi đó vì các em đã thuộc luật, sống theo luật, thầy mang theo thật nhiều hình ảnh trong tâm tư rồi, cho nên thầy không muốn phải ghi nhận thêm hình ảnh của sự chia ly. Điều mà thầy nhớ nhứt là trong đêm vừa qua, học trò thầy đã hiện diện đầy đủ, không sợ hiểm nguy giúp đồng bào trong xóm. Các em đừng buồn khi những người lớn tuổi hơn mình trong đêm vừa qua vẫn đắm chìm trong giấc ngủ rồi lại còn rầy la những kẻ hết lòng.

Sau chót thầy khuyên các em hãy tiếp tục phát huy mãi cuộc sống tập thể cho thôn xóm. Còn thầy, thầy "NHƯ NGƯỜI GIEO MẠ" gieo rắc sự vui tươi cho tuổi thơ hôm nay. Thầy sẽ áp dụng cho bất cứ những già mà thầy sẽ gặp, áp dụng cho bất cứ tuổi học trò nào mà thầy sẽ được chỉ điểm ngày mai dầu ở thôn quê xa xôi, hay ở miền thị thành vương giả. Các em đừng buồn.


PHAN TUYẾT HẠNH      

(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 134, ra ngày 1-8-1970)



Chủ Nhật, 21 tháng 4, 2024

Hoa Nở Trong Tim

 An đẩy cửa thò đầu vào nhà, bên trong tối om. Chỉ có một vệt sáng duy nhất chui qua cánh cửa đang hé mở ngã dài trên nền đất. Gian nhà nóng hầm, nồng nặc mùi rượu lẫn mùi đất ẩm.

Trên tấm phản thấp lè tè đầy vết mọt loang lổ, lão Nhượng nằm co quắp. Mặt lão xây về phía An, nó trông rõ vệt nước dãi chảy dài bên khóe miệng, thấm ướt nhẹp cả vạt áo kaki cũ mèm. Đầu tóc lão rối bù, mặt đẫm cả mồ hôi. Cạnh lão, trên chiếc ghế con, chai "ba xi đế" nằm lăn lóc, chỉ còn trơ cái vỏ. Bóng tối lan tràn trên khắp người lão, nô đùa, nhảy múa!

An lay mạnh vai lão Nhượng, léo nhéo gọi:

- Bác Nhượng ơi! Dậy! Dậy! Nhanh đi bác.

Lão Nhượng ú ớ vài tiếng rồi tiếp tục ngủ, say như chết. An chồm người tới, nó hét vào tai lão:

- Dậy mau! Bác.

Lần này, lão Nhượng tỉnh hẳn, lão hấp háy đôi mắt đầy ghèn. An nom rõ đôi mắt sâu hoắm, đỏ kè những tia máu của người say. Lão Nhượng lè nhè quát, giọng sặc mùi rượu:

- Thằng khốn nào đấy, phá giấc ngủ ông hả? Muốn chết phải không?

- Thưa bác, cháu đây ạ.

Chợt nhận ra thằng An, con lão Bá xích lô, lão Nhượng ngồi bật dậy, đưa tay dụi mắt, hỏi nó:

- Có chuyện gì đấy?

An hấp tấp:

- Cháu tìm ra chỗ thằng Việt đánh bài cùng tụi bạn nó rồi! Bác theo cháu mau.

Lão Nhượng nghe xong giật bắn người, lão tụt xuống phản, hấp tấp xỏ chân vào đôi guốc, xong lão móc túi lấy ra mấy đồng bạc dúi vào tay thằng An, đoạn theo nó đi.

Mấy bữa nay lão Nhượng mất ăn mất ngủ khi nghe tin tụi bạn cùng lớp thằng Việt - con lão - bảo nó bỏ học để theo tụi bạn hư đốn tụ năm, tụ bẩy, đánh bạc, phá phách xóm làng. Lão Nhượng giận tím gan, lão không ngờ thằng con hiền lành ngoan ngoãn thuở nào lại trở thành hư đốn như thế, ôn lại dĩ vãng, từ ngày vợ mất, lão cảm thấy buồn thấm thía, mang nặng một vết thương đau trong lòng, lão đâm ra rượu chè be bét, suốt ngày bầu bạn với rượu. Có khi say khướt, lão lết thết ra ngồi trước cổng nhà chửi bới thiên hạ. Lũ trẻ trong xóm gán cho lão một biệt hiệu là "Lão ma-men". Thấy bóng lão đâu là chúng chạy theo rần rần, để chọc, để cười bằng thích.

Tuy thế, nhưng lão lại thương thằng con hơn hết. Lão chỉ độc có nó. Hai cha con sống hẩm hiu trong gian nhà nhỏ lụp xụp, lão cố gắng nuôi nó ăn học cho xứng với lời trăn trối của vợ lúc lâm chung. Mỗi buổi tối sau một ngày trời cong lưng trên chiếc xích lô đạp vất vả - cơm nước xong lão bắc ghế ra giữa sân ngồi hóng mát, vừa khề khà nhấp rượu, vừa nghe thằng con đọc truyện Tam Quốc. Đó, những giây phút sung sướng mà lão mong sẽ không bao giờ mất, đã mất đi theo thằng con lão. Lão Nhượng giận thằng con ngỗ nghịch, nhưng lão chỉ để trong lòng vì lão chưa tìm ra sự thực, chưa bắt được quả tang. Bữa nào cũng như bữa nào, đến tối mịt nó mới dẫn xác về. Lão có gặng hỏi thì nó đáp là phải ghé nhà thằng bạn để chép bài. Lão Nhượng buồn trong thâm tâm đến mất ăn mất ngủ. Cuối cùng, lão nghĩ ra một biện pháp rất hay là nhờ thằng An - con lão Bá hàng xóm - An học cùng trường với thằng Việt con lão. Lão nhờ nó tìm chỗ mà thằng Việt đánh bạc, lão hứa rằng sẽ cho nó tiền nếu nó tìm được. Và giờ đây lão đã toại nguyện. Một già, một trẻ bước nhanh trên con đường đất băng ra lộ.

*

Đám bạc quây quần dưới mái hiên lớp học. Bọn nhãi hôm nay chơi "catê". Những con bạc nhãi ranh sát phạt nhau ra mặt. Bọn chúng có 6 thằng, tuổi xấp xỉ ngang nhau. Thằng nào, thằng nấy ngồi vắt chân chữ ngũ, miệng phì phèo điếu thuốc lá thơm. Vừa đánh chúng vừa cãi nhau ỏm tỏi.

Một thằng chưng, hai thằng tiêu tùng, ba thằng còn lại hồi hộp đợi thằng chưng chìa con dưới. Thằng nhãi kia kéo lẹ ngón cái để lộ con bài, ba thằng nhãi thất vọng, vất bài, một thằng chắc lưỡi hít hà:

- Ngu quá, giá biết thế tao để 9 cơ ở dưới thì ăn ngon ơ...

- Thằng Việt hôm nay đỏ quá há tụi bây?

Một trong 2 thằng tiêu tùng nuốt nước bọt xuýt xoa:

- Tiền tao bán cuốn sách hôm qua, bữa nay cúng nó hết.

Năm thằng nhãi thèm thuồng nhìn Việt lùa bạc vào túi. Một thằng có lẽ thua đậm sôi tiết dục:

- Ăn chia bài mau lên mày.

Thằng khác nhổ nước bọt dọa:

- Ê chơi không nghỉ nửa chừng như ngày hôm qua nghe mày, chơi gian ông "uýnh" mày chết.

Việt thản nhiên bỏ bạc vào túi, nó cười khẩy:

- Tao muốn nghỉ chơi thì tao nghỉ ai cấm tao. Mày muốn uýnh thì vào đây uýnh ông đi.

Bọn nhãi nén giận, chúng nó sợ thằng Việt nghỉ thật nên không cãi nữa. Một thằng búng mẩu thuốc lá thừa vào góc tưởng, giọng cay cú:

- Chia mau đi mày.

Việt thản nhiên chia bài trước những cặp mắt hậm hực của bạn nó. Ván kế tiếp, Việt lại ăn. Nó vét tiền đầy túi. Có tiếng đồng hồ quả lắc trong văn phòng buông 6 tiếng, Việt buông bài, nó thu bạc lại thành một đống, đoạn nói:

- Sáu giờ rồi, tao phải về, mai tụi mình chơi tiếp.

Cả bọn buông bài, một thằng kéo áo Việt lại:

- Ê, đâu có về được mày, ăn gian hả?

Việt gạt tay thằng nhãi, nó mỉa mai:

- Mày chơi kiểu gì vậy, thua bạc cáu hả?

Nói xong, Việt hốt nhanh tiền nhét túi, thằng nhãi tức giận, nó phóng một trái đấm vào ngực Việt. Việt ngã chúi xuống đất, nó ôm ngực đau đớn. Thằng nhãi tiến tới, Việt lồm cồm dậy, nhưng nó chưa kịp đứng lên thì 1 cú đá thứ 2 tống vào chân nó, Việt lại ngã xuống đất như cũ. Bọn nhãi nhào tới, chúng đè thằng Việt xuống, móc hết tiền trong túi nó. Thằng đánh nó hồi nãy tát Việt hai tát tai nổ đom đóm ; nó cười:

- Còn chơi kiểu này nữa thôi hở con. Lần sau ông lắt mũi mày con ạ!

Việt phẫn uất, nó mím môi không khóc, người nó nóng ran lên, sự uất ức làm mờ mắt nó. Việt chỗi dậy thực nhanh, nó túm lấy ngực thằng nhãi hồi nãy, nghiến răng ken két nó phóng 1 quả đấm vào mặt thằng ấy. Tất cả phẫn uất đều rồn vào quả đấm, thằng nhãi kêu thét ngã ngửa. Nó chỗi dậy, một giòng máu đỏ lòm từ lỗ mũi bò ra nom hệt như 1 con rắn ban đêm rời khỏi hang đi kiếm mồi. Việt xông tới, nó tống một quả thứ hai vào bụng kẻ địch, ông nhãi đo đất lần nữa. Bọn nhãi hầm hè định xông vào chợt chạy tán loạn ra sân sau. Việt ngạc nhiên, nó định chạy khi nó vừa nhận ra bóng người từ ngoài cổng trường chạy vào : Lão Nhượng - ba của nó.

Lão Nhượng túm lấy cổ áo nó lôi xềnh xệch ra cổng, lão giận dữ đến run cả người. Việt co rúm, y như con cừu non bị cạo lông giữa trời đông lạnh. Lão Nhượng rít qua hai hàm răng:

- Mày... mày, về nhà tao giết mày, thằng hư đốn.

Việt sợ hãi, nước mắt nó cơ hồ trào ra, nó lết thết theo cha nó. "Về nhà nó sẽ chết". Nó mong thời gian dài ra, nhưng thời gian sao mà ngắn thế!

Quãng đường từ trường về nhà mọi khi dài lê thê mà bây giờ chỉ thoáng chốc đã bị nó nuốt chửng.

Nhà nó kia rồi...

*

Một cơn gió lạnh thổi xoáy ào ào trong không gian. Những cành cây chụm đầu vào nhau tâm sự.

Việt gục đầu xuống đầu gối, run bần bật, tay chân nó rã rời như không còn biết đến cảm giác nữa. Toàn thân nó đau như dần. Đau đến nỗi muốn khóc nhưng cơ hồ không khóc được. Chỉ 1 cái nhích người cũng đủ làm cho khơi lại cái đau. Việt ngả đầu vào chuồng heo, nó thút thít khóc. Tiếng khóc của nó vang lên nho nhỏ giữa đêm khuya. Lũ heo trong chuồng bị động kêu ụt ịt. Quanh nhà tiếng côn trùng rả rích một điệu nhạc buồn tênh.

Ngoài kia, trăng đã lên cao, rọi ánh sáng hiền dịu chảy chan hòa trên mặt đất. Việt thiếp dần trong tiếng nhạc ru ngủ của côn trùng, người nó rủ xuống như tàu lá héo. Nãy giờ Việt đâu có hay cha nó đang ghé mắt qua tấm ván nhìn nò, lão nhìn đứa con sau trận đòn hồi chiều bị lão bỏ đói ở chuồng heo, lão khẽ thở dài, lòng đau như xé.

*

Việt đã lành hơn ngót tuần nay. Nó điều tra ra thằng chỉ điểm cho ba nó không ai khác hơn là thằng An. Việt giận thằng An quá. Nó quyết đánh cho thằng khốn nạn ấy một trận nhừ tử. Nhưng nó không sao thực hành được, vì thằng An biết thế nên nó lánh mặt Việt. Việt quyết không tha, nó kiên nhẫn đợi cơ hội và cơ hội đã đến. Chiều nay Việt về sớm, nó đứng bên đường đợi thằng An bãi học về.

An không ngờ bữa nay Việt về sớm hơn mọi ngày, nên vừa ra khỏi trường, nó tách hàng ù té về nhà. Việt chận đường, An tái mặt, nó lùi định chạy, nhưng thằng Việt đã đi guốc trong tim nó, nên nhào tới không nói không rằng đấm đá thằng An một trận tơi bời. An khóc thét, đến khi Việt ngưng tay thì nó đã sưng húp mặt mày. Việt phủi áo quần, nó cung tay hăm:

- Tao cảnh cáo lần này, lần sau chừa đi nghe mày. Về mét lại với ba mày tao đánh lọi cẳng. Liệu hồn đấy.

An lượm cặp lên, khóc tức tưởi, nó lủi thủi vào xóm. Còn Việt, nó chưa về nhà, nó định đợi tới tối nếu không có gì xảy ra thì về cũng không muộn. Nhưng Việt không ngờ khi thằng An về đến nhà, lão Bá thấy mặt mũi thằng con sưng húp, tèm nhem đất cát, lão giận quá hỏi:

- Đứa nào đánh mày thế?

An ấp úng chối, nó nói bị ngã. Nhưng ba nó không tin, quát bảo:

- Mày dối tao hả An, đứa nào đánh mày thế? Nói tao nghe!

An sợ hãi, nó thút thít vừa kể cho lão Bá nghe đầu đuôi câu chuyện. Lão Bá nghe xong nghiến răng giận dữ, lão lôi thằng con xềnh xệch sang nhà thằng Việt.

Lão đẩy cửa vào nhà, vào bên trong thấy lão Nhượng đang ôm đầu suy tư trên ghế, lão không cần chào hỏi, lớn tiếng:

- Anh Nhượng, anh nhìn đây này.

Lão Nhượng giật mình ngẩng lên, hai con mắt của lão đỏ kè, vẻ mặt ngơ ngác đáng thương. Hình như lão không nghe lão Bá hàng xóm đã nói gì, nên kêu lên:

- A! Anh! Mới đến hả? Có chuyện gì đây?

- Anh nhìn con tôi hẳn biết.

Lão Nhượng ngạc nhiên đưa mắt nhìn thằng An. Lão hiểu phần nào. Tiếng lão Bá gay gắt:

- Đó, anh thấy chưa, hãy ngắm "tác phẩm" của thằng con anh đi.

Bị lão Bá xổ văn chương ra mỉa mai, nhưng lão Nhượng không cãi. Lão biết lỗi về mình nên nhẫn nhục, giọng thấp xuống:

- Thật tôi không ngờ nó quá quắt như thế. Nó lén đi hồi nào tôi đâu có hay.

- Hừ, anh nên biết nó là thằng...

Lão Bá chợt im bặt ngay câu nói sau khi thấy lão Nhượng hằn học nhìn mình.

- Thôi, tôi mong anh bỏ qua cho. Nó còn con nít mà.

Lão Bá xẵng giọng:

- Hừ, còn nhỏ nhít gì nữa, nhỏ mà biết hút thuốc, biết đánh bạc à.

Lão Nhượng uất cả người, máu nóng dồn lên tận mặt, lão hất hàm:

- Anh nên nhỏ nhẹ một chút, anh thấy tôi nhịn, anh làm tới hả?

- Tôi làm tới gì đâu? Tôi chỉ nói thằng con anh thôi. Nó là một thằng mất dạy.

- Còn anh? Anh cũng là 1 thằng khốn kiếp.

- À, mày chửi tao hả thằng côn đồ.

Lão Bá xắn tay áo nghiến răng hầm hừ.

Lão Nhượng đứng bật dậy, vung tay:

- Ê, đừng làm trời trong nhà này nghe mày.

- Tao không làm trời, tao chỉ hỏi mày rằng con mày đánh con tao như thế mà mày binh nó hả?

- Lão Nhượng cười gằn bướng bỉnh:

- Không bênh con thì bênh ai?

- Mày nói sao?

Lão Nhượng vung tay quát to:

- Tao không có thì giờ để cãi với mày. Cút ra khỏi nhà tao. Cút ra khỏi nhà tao. Cút!

Lão Bá giận xanh mặt, nhưng lão không muốn to tiếng để hàng xóm chú ý, nên kéo thằng An ra khỏi nhà và không quên cung tay hăm dọa:

- Thằng "ma men", ông mà gặp con mày thì ông giết nó.

Lão Nhượng không cãi, lão thẫn thờ gieo người xuống phản. Lão nằm đấy, hai mắt mở thao láo nhìn lên trần nhà. Trong đầu óc lão, hình ảnh thằng Việt hiện ra. Một lúc sau, lão thiếp dần đi trong sự mệt mỏi, tiếng ngáy của lão vang lên đều đều.

*

Việt không trở về nhà, nó đã biết được tin ba nó cãi nhau cùng lão Bá. Nó sợ, sợ về nhà ba nó sẽ giết nó không tha. Nó nghĩ rằng giờ đây chắc ba nó đang tức giận điên cuồng đi tìm nó. Nếu không đi một nơi nào khác để trốn, để ba nó mà vớ được thì... Nó không dám nghĩ đến nữa, nó đi lần theo vỉa hè xuống chợ. Đầu óc nó bây giờ hoang mang không biết đi hướng nào nhất định. Vỉa hè lớn, người vắng. Nó cơ hồ như cánh chim bay lạc vào một vùng hoang vu. Chiều xuống, thành phố đã lên đèn.

*

Việt bỏ nhà đi hơn tuần lễ. Trong thời gian ấy nó theo nghề bán báo để sống. Suốt ngày ôm xấp báo nặng chình chịch chạy rong khắp vỉa hè dưới bầu trời nắng như thiêu như đốt.

Tối đến, nó ngủ dưới gầm cầu hoặc dưới mái hiên các nhà bên hè phố. Nó vẫn chưa dám trở về nhà, vẫn còn sợ ba nó. Sợ ngọn roi to tướng của ba nó mỗi lần quất vào mông. Tất cả hình ảnh đó vẫn còn ám ảnh trong đầu óc Việt. Nhưng nó biết đâu giờ này ba nó đang dài cổ đợi nó về. Việt chỉ chịu đựng có hạn và đến bây giờ thì nó hết chịu nổi nỗi nhớ nhà. Nó nhớ ba nó, nhớ trường học, nhớ bạn bè. Nhớ tất cả. Nó tự mắng nó rằng khi được sung sướng ở bên cha, được ngồi trên ghế nhà trường sung sướng học tập, sao nó lại bỏ theo lũ bạn hư đốn để rong chơi hoang đàng làm gì nhỉ? Giờ đây Việt quyết định trở về nhà, quì dưới chân ba nó để nói lên niềm hoán cải đang sôi động trong lòng. Việt thực hành liền ý định, chiều hôm ấy, bán xong xấp báo nó ba chân, bốn cẳng chạy một mạch về nhà.

*

Việt hồi hộp đẩy cửa bước vào nhà. Trời đã tối tự bao giờ. Tiếng ve sầu mùa hạ rỉ rả đều đều. Việt cảm thấy lòng dạ nó nao nao. Bên trong nhà vắng lặng và im như tờ. Việt đứng yên một chỗ, nó nghe rõ tiếng muỗi vo ve trong xó tối.

Nó nhủ thầm:

- Chắc ba ở sau vườn, mình ra tìm xem.

Việt lần xuống nhà bếp, nó đẩy cửa bước ra vườn. Tim Việt đập mạnh, hồi hộp khi nó nhác trông thấy cái bóng gầy gầy của ba nó đang lúi húi tưới mấy luống rau. Việt sợ hãi thật sự, chân nó ríu lại, nó mất hết can đảm để bước tới, trong lòng nó, một niềm cảm xúc mãnh liệt dâng trào, nó thương ba nó, thương cuộc đời vất vả cơ cực của ba.

Lão Nhượng ngẩng lên khi nghe tiếng cửa rít lên kẽo kẹt. Lão sững sờ khi nhìn rõ cái bóng nhỏ nhắn của thằng con đứng sững nơi ngưỡng cửa bếp. Lão buông rơi cái gáo nước bước lại phía thằng Việt như một kẻ mất hồn. Lão không ngờ thằng con yêu của lão lại có thể trở về, lão cảm động muốn trào nước mắt nhưng nước mắt của lão không trào ra được vì hình như nó đã cạn từ lâu. Lão run run hỏi nó:

- Mày về đó hả? Mày về làm gì nữa, sao không chết dấp ở đâu cho rồi?

Câu hỏi tuy nghiêm khắc, nhưng nó bao hàm một tình thương bao la. Tuy hỏi thế nhưng trong thâm tâm, lão chỉ muốn ôm nó vào lòng để nói cho nó những nỗi niềm thương nhớ của lão trong thòi gian nó bỏ nhà đi.

Thằng Việt sà vào lòng lão, hai bàn tay non nớt của nó ôm choàng lấy cổ lão, giọng nó nức nở khàn khàn nhưng lão nghe thương mến làm sao:

- Ba... ba tha lỗi cho con. Con xin hứa với ba từ nay con sẽ vâng theo lời chỉ bảo của ba. Con muốn đi học lại.

Lão Nhượng cũng không ngăn được cảm xúc, lão ôm choàng lấy nó, giọng lão trầm trầm hiền dịu:

- Ba sẵn lòng tha lỗi cho con, ngày mai, ba sẽ dẫn con tới trường xin thầy giáo cho con vào học lại. Ba rất mừng khi thấy con trở về.

Việt gục đầu vào lòng cha sung sướng, tình phụ tử dâng trào trong huyết quản. Chợt nhớ ra điều gì, nó thọc tay vào túi, lấy ra một xấp bạc lên khoe:

- Ba ơi, con có tiền nè ba.

Lão Nhượng nhìn xấp bạc trên tay thằng con, mặt lão thoáng buồn, lão hỏi:

- Tiền đâu con có? Con đã đánh bạc?

- Dạ không. Tiền này con kiếm bằng mồ hôi nước mắt. Con kiếm nó bằng cách con đi bán báo đó.

Lão Nhượng sung sướng vuốt tóc con, Việt tiếp:

- Con đi mua đồ nhậu cho ba nhá!

Lão Nhượng xua tay:

- Thôi con, ba đã quyết bỏ rượu chè rồi. Tiền này để dành cho con mua sách vở.

Việt sung sướng, nước mắt nó trào ra. Trong đầu óc nó hiện lên một hình ảnh đẹp tuyệt vời:

Ngày mai... ngày mai bằng một ngày trong tất cả ngày khác. Đó là một ngày vàng trong cuộc đời thơ ấu của thằng Việt.


HÀ THÚC KHÁNH      

(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 42, ra ngày 1-4-1966)


Thứ Bảy, 20 tháng 4, 2024

Rừng Hoa Mộng Ước

 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Tuổi 13 ươm vạn ước mơ đầu
Một biển tâm tình trong mắt me sâu
Trên cao mưa xuống muôn vàn ánh nắng
Bao nắng huy hoàng ruộng ngát hương lau

Chân in vết mòn khắp nẻo đường quê
Rừng hoa bừng đón lối bước em về
Việt Nam ơi! Ơi muôn lời ưu ái
Một chút men nồng dậy trong nắng hoe

Nhưng ba còn đi bao niềm long đong
Nên me từng đêm nhìn hỏa châu hồng
Trời xanh xa quá tha hồ mắt ngước
Em lấy mộng vàng đắp trên chờ mong

Nhưng ba còn đi áo đắp bụi đường
Ước mong ngày nào trên đường quê hương
Trời cao cảm thông cho mưa móc xuống
Cho mắt me buồn thôi đẫm lệ thương.

                                                    CA DAO
                                                 (bn Hoa Tiên)

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 86, ra ngày 22-4-1973)



Thứ Tư, 17 tháng 4, 2024

Nhà Chăn Nuôi Tí Hon

 

Độ rày đọc báo thấy chánh phủ cho nhập cảng gà nhiều quá, rồi kẻ mua gà loại này, người bán gà giống nọ, nghe thật nhộn nhịp. Phương thấy lòng háo hức vô cùng nên nhứt quyết xin má cho nuôi thử. Nhưng Phương chợt lo ngại, biết má có chịu không chứ! Nhà cũng đâu rộng rãi gì cho cam, lại chẳng có lấy một cái sân nhỏ nữa, rõ khổ thật! Nhưng chỉ thoáng trong một chốc nét mặt Phương lại tươi lên ngay ; à đã có cách: Phương sẽ nhờ Hà trong việc thuyết phục má, vì Hà là con gái út nên được cả nhà thương yêu chìu chuộng vô cùng, mặc dầu năm nay nó đã 7, 8 tuổi rồi. Nếu có Hà nói giúp chắc má cũng xiêu lòng. Nghĩ như thế nên Phương bèn đi tìm Hà. Gớm, con nhỏ coi vậy mà khó tánh ghê, Phương phải hứa bừa đủ điều với nó, nào là sẽ ưu tiên cho Hà trong việc chọn gà, nào là khi gà đẻ, có bao nhiêu trứng sẽ để dành cho Hà ăn "cóc la" cả, như thế nó mới chịu nhận lời ủng hộ tinh thần giùm.

Thế là hai chị em bắt đầu một "công tác tâm lý chiến". Mới vừa nghe Hà trình bày ý định này má đã cười vang lên:

- Chèn ơi con còn con nít mà cũng bày đặt nuôi gà. Rủi mới đem về vài ngày rồi nó rủ nhau chết cả đám thì nguy to à!

Hà vội vàng đính chánh:

- Dạ con không có nuôi mà tại chị Tư kêu con nói giùm đó má.

Phương xà đến gần má:

- Má cho con nuôi gà nghe má.

- Nhưng mà con nhắm coi biết nuôi hôn?

Phương mừng rỡ:

- Má chịu cho con nuôi hả má? Hoan hô má! Má thượng thượng hạng trên đời này.

Má  lại được thêm một dịp cười nữa:

- Con làm như má là món đồ chẳng bằng. Ờ nhưng mà rồi tiền đâu con mua gà?

Phương, Hà nhao nhao lên:

- Dạ tụi con bỏ ống được 450 đ rồi má.

Số là mỗi sáng Phương chịu khó nhịn tiền quà bánh, cứ mỗi ngày để dành được 15 đ, non một tháng như thế, tính đến nay cũng đã khá bộn tiền. Phương đã tính trước rằng với 450 đ này cũng đủ mua một chục con gà mới nở.

Như vậy ngày mai hai đứa sẽ nhờ anh Ba dẫn đi mua hộ với, vì đây là lần đầu nuôi gà nên Phương chẳng biết phải chọn giống nào, phải nhờ người lớn mới được. Thôi như thế mọi chuyện đã tạm dàn xếp ổn thỏa, và Phương cảm thấy vui trong lòng...

*

Đám gà của Phương đặc biệt lắm, cả mười con từ đầu đến chân đều khoác lên mình bộ lông màu đen mướt. Vì hôm mua Phương và Hà thấy ngộ ngộ nên thích quá bèn đồng ý chọn gà màu này, vả lại Phương cũng nghe người ta nói gà lông đen khỏe mạnh, ít chết hơn gà lông hồng, vàng.

Hôm nay khi mới đem gà về thì chưa chi má đã kêu lên:

- Trời ơi gà của người ta là con gái nhà giàu nên lông hồng mơn mởn xinh đẹp thế kia, còn bà của chị em bây là con gái nhà nghèo nên con nào cũng đen đúa xấu xí quá đi, coi thiệt dơ dáy.

Nghe má nhạo như thế là con Loan - ở cạnh nhà Phương - đứng chúm chím miệng cười, vì nhà nó cũng nuôi gà con lông vàng. Cứ nhìn cái mặt vênh vênh tự đắc của nó Phương đủ thấy tức khí dâng tràn lên cổ họng và liền trả đũa:

- Ờ, để mày coi, gà của mày thế nào ít bữa nữa cũng có vài con "buồn buồn" cho coi. Thứ gà thục nữ yếu đuối như vậy làm sao sống lâu được! (Khi nói tiếng "buồn buồn" là Phương muốn ám chỉ mấy con gà của Loan sẽ chết non để trả thù cho đỡ tức).

Má trừng mắt nhìn Phương:

- Thôi nghe Phương, bạn bè với nhau mà con nói như vậy không sợ Loan giận sao? 

Thấy má chẳng chịu ủng hộ "gà nhà" nên Phương buồn bã im lặng. Thôi mặc kệ, ai có chê cười gì thì cóc cần, miễn sao Phương lo nuôi nấng cho chúng lớn là được.

Sau đó Phương nhờ anh Ba đóng hộ một cái chuồng nho nhỏ. Vì tuy là một học trò gầy yếu nhưng hầu như cả ngày anh chỉ thích làm những công việc tẳn mẳn có phụ thêm bộ đồ nghề như kềm răng, mỏ lết, con vít, cái cưa... Rồi thế nên cả nhà đặt anh biệt hiệu là: "Anh Ba lục đục". Vì trước kia lỡ trêu ghẹo anh nên bây giờ khi Phương nhờ đóng giùm cái chuồng, anh đã nhân cơ hội này lên mặt làm tàng bắt chẹt Phương:

- Vậy sao hồi đó Phương chọc anh chi vậy?

- Thì hồi đó em giỡn chơi mà.

- Hổng giỡn gì hết, ai biểu hồi đó chê tui lục đục thì bây giờ chịu khó làm lấy đi.

Trời ơi, từ nhỏ đến lớn có bao gờ Phương đụng mó đến những dụng cụ đó đâu, hơn nữa Phương lại là con gái, anh không nhớ như vậy sao mà nay bắt Phương phải đụng chạm đến những món đó? Nghĩ tức hết sức, Phương muốn nuôi gà là đem cái lợi về cho gia đình nhưng không ai chịu như vậy cả mà cứ làm khó làm dễ, hết o bế người này lại đến van lơn người khác, thế là nghĩa lý gì chớ? Tự nhiên Phương đâm ra "oán thù" tất cả mọi người, muốn bỏ mặc đàn gà ra đó chắc thế nào cũng phải có người lo cho chúng. Nhưng khi nhìn lại những con gà bé nhỏ, mồm sẽ kêu lên mấy tiếng "chíp chíp", mắt giương tròn vo tỏ vẻ ngơ ngác sợ hãi, như cầu cứu ở Phương một sự che chở bao la, Phương bỗng thấy lòng mình dịu lại và cố lấy giọng ngọt ngào năn nỉ anh:

- Thôi đừng giận em nữa mà, anh Ba ráng làm chuồng cho mấy con gà ở, chớ để nó đứng ngoài nắng hoài tội nghiệp lắm. Rồi em xin hứa từ đây về sau không dám chọc anh nữa, nghe anh Ba...

Nói xong Phương đưa mắt khẩn khoản nhìn anh : anh vẫn im lặng không nói, miệng hơi nhếch lên tỏ vả ta đây tài giỏi lắm vậy. Sau mấy giây ngần ngừ, anh uể oải (có lẽ giả vờ) trả lời:

- Thôi tao cũng ráng làm cho mầy vậy, chớ sợ lát nữa đây "nước đái thằn lằn" ứa ra thì mệt à!

Phương quên cả anh đang nhạo mình mà chỉ mừng rỡ la lên:

- Chèn ơi! Anh Ba tốt quá, em cám ơn anh nhiều, nhiều lắm lắm...

Thế rồi anh bắt tay ngay vào việc. Còn Phương và Hà chạy lăng xăng chung quanh mong được giúp anh chuyện gì.

Trong lúc anh hì hục ngồi đóng chuồng thì Hà lo quạt cho anh vì mấy giọt mồ hôi đã ra lấm tấm trên lưng. Mỗi khi cần đồ nghề gì anh chỉ việc dõng dạc sai:

- Đứa nào lấy cho ta cái "tu-la-vít" coi!

"Lệnh" mới truyền ra thì Phương đã nhanh nhẩu mang đến cho anh:. Vì lúc này anh nhờ nên Phương mới phải chịu lép vế như thế, giá là lúc thường thì chẳng khi nào Phương lại phục tùng anh bao giờ. Và nếu ngày nào Phương và Hà hợp nhau để nhạo bàn tay năm ngón dùi đục của anh thì giờ đây Phương thấy bàn tay ấy đẹp đẽ cao cả vô cùng. Nhờ bàn tay nầy mà đám gà của Phương mới có nơi nương tựa. Tự nhiên Phương cảm thấy phục và càng thêm thương anh. Thỉnh thoảng Phương ráng lựa lời khen cho anh vui, chẳng hạn: "Chà! Gà của em có phước lắm mới được ở chuồng anh Ba đóng đó". Có lẽ anh thừa hiểu "tim đen" của Phương nên chỉ mỉm cười trả lời:

- Thôi đi cô ơi, đừng bày đặt "nịnh đầm" để tôi làm cho tốt, tôi biết cô quá xá mà.

Phương cúi đầu bẽn lẽn vì thấy anh nói đúng tâm lý mình ghê.

Chừng gần 3 giờ sau chuồng được đóng xong, anh Ba đứng dậy thở phào một cái, rồi mệt nhọc đưa tay vuốt cái lưng bóng nhẵn vì mồ hôi tuôn ra ướt đẫm cả, trông như cột mỡ vậy. Còn Phương và Hà thích quá nên xúm lại tranh nhau sờ mó chuồng và miệng không ngớt tấm tắc khen ngợi. Riêng anh chỉ nghiêng đầu qua nghiêng đầu lại ngắm nghía "tác phẩm" của mình mới vừa hoàn thành rồi hất hàm hỏi:

- Cái chuồng coi được hôn tụi bây?

- Mèn ơi như vậy là số dách rồi còn gì nữa. Chuồng coi đẹp ghê vậy anh.

- Dám nhiều khi mấy ông thợ nhà nghề còn chưa đóng bằng anh nữa đó.

Có lẽ anh khoái chí lắm nên Phương trông mũi anh cứ phập phồng mãi.

Sau đó Phương tính sẽ đặt chuồng ở ngay dưới bếp nấu ăn vì thấy như thế cũng tiện: ở trên là mấy cái "rề sô", Phương vừa có thể đứng nấu ăn, lâu lâu ngồi xuống ngắm mấy chú gà cho đỡ mệt. Thế rồi Phương lấy báo lót lên sàn lưới của chuồng và cẩn thận bắt từ con gà nhốt vào. Còn Hà nhát quá, chỉ dám nhè nhẹ đưa tay vuốt mấy sợi lông mềm mại êm như nhung của chúng. Tánh nó vậy đó, sợ gà không ai bằng.

Xong xuôi đâu đó cả rồi, chị em ngồi nhìn đám gà tí hon nô đùa chạy giỡn, và miệng bàn tíu tít đủ chuyện. Như thế từ đây Phương với Hà sẽ lãnh phần nuôi nấng chúng. Hai chị em cùng thấy hãnh diện vì được "lãnh đạo" mấy chú bé con này. Mộng ước bấy lâu nay đã thành, Phương thở dài khoan khoái...

*

Đồng hồ thong thả gõ 7 tiếng. Phương giật mình mở choàng mắt, nhìn ra ngoài trời đã sáng rõ. Sau khi cuốn mùng chiếu xong Phương xuống nhà dưới thăm đám gà con. Tính từ ngày đem chúng về đến nay cũng đã được một tuần, thế nhưng Phương thấy chúng chỉ lớn hơn lúc đầu một chút xíu thôi, như vậy biết đến bao giờ mới làm thịt được đây? Có lẽ tại Phương cứ mong cho đám gà của mình mau lớn nên dường như thời gian càng kéo dài ra (?) Từ khi nuôi gà thì mỗi sáng lúc thức dậy Phương lò mò xuống bếp lo thay giấy trong chuồng, rồi lấy thực phẩm loại Vinafeco đổ vào máng ăn và thay nước sạch cùng nhỏ vào mấy giọt Vitamycine cho chúng uống (hầu tránh việc vài mạng gà có thể bất chợt "buồn buồn" chơi khiến con Loan nó cười thì... mắc cỡ chết được). Gớm, mấy chú này háu ăn thật, chú nào cũng vừa tranh nhau đút mỏ vào máng ăn và miệng không ngớt kêu ríu rít cả lên. Nhiều con chen không lại đành bị hất văng ra ngoài, thế mà cũng gượng dậy và chạy lại cố lấn cho được đến gần máng, trông thật tức cười. Ăn no rồi các chú khát nước, bèn đến cái tô nhỏ bằng nhôm uống. Nhìn mấy sợi lông ống hơi nhú ra ở đôi cánh nhỏ và mấy cái đầu bé tí tẹo, tròn tròn, phù lông đen mướt cứ ngửa lên cúi xuống đến mươi lần trông mới dễ yêu làm sao! Những lúc đó Phương muốn nựng chúng thật mạnh, nhưng chỉ dám đưa tay bóp nhẹ cái mình bé bỏng, nhiều chú hốt hoảng há mõm kêu to mấy tiếng đoạn chạy lánh nơi khác, và rồi cũng vẫn hồn nhiên trửng giỡn hoặc nằm chịu nắng ra chiều thích thú lắm vậy. Có lần Phương thử cầm một con lên tay, thoạt đầu cu cậu giẫy nẩy loạn xi lên, nhưng chừng một lát sau thì nó mệt nhọc khép màng trắng lại và từ từ buông thõng đầu ra đàng sau, Phương hết hồn tưởng đâu mình làm đau nên nó chết và luống cuống chẳng biết phải xử trí thế nào bây giờ. Lúc đó anh Ba đứng gần đấy thấy vậy bèn reo hò inh ỏi:

- Thôi rồi nguy quá, con gà của Phương đi chuyến tàu suốt về âm phủ rồi. Ò... e... Rô be đánh đu... Tarzan nhảy dù... ô hô! Vui quá anh em ơi!!! 

Phương giận run lên, miệng đã hơi mếu mếu, trong lúc bối rối như thế này anh chẳng giúp Phương lại nỡ nào vỗ tay bôm bốp và còn ca hát om sòm nữa chớ? Nhưng đột nhiên con gà choàng mở mắt và nó tiếp tục giẫy giụa. Giữa lúc Phương còn ngơ ngác chẳng hiểu vì sao nó hồi sinh lại được thì anh đã nhăn răng cười khì khì rồi giải thích:

- Phương khờ quá đi, ai đời con gà nó chỉ giả bộ chết để người bắt thả nó ra, vậy mà cứ cuống cuồng như gà mắc đẻ ấy! Loan ơi! Qua đây lẹ lẹ lên, coi cái này vui lắm nè!...

Phương vội vàng đưa tay bịt miệng anh:

- Ấy chết, anh nói nhỏ nhỏ chớ rủi con Loan nó qua thiệt rồi nó cười thì chết em rồi. Anh này ác quá hén, nghỉ anh ra luôn đó.

Anh Ba chẳng nói gì cả mà cứ tiếp tục đứng cười hềnh hệch. Trông cái mặt anh lúc đó mới dễ ghét hết sức, Phương chỉ muốn thoi một cái thật mạnh vào cho hả giận. Giờ ngồi nhớ lại Phương thầm tức cười vì thấy mình rõ ngốc thật, đã để con gà tinh quái làm một mẻ khiến Phương phải một phen sốt vó. Ghê nhỉ, mấy cô cậu gà coi bề ngoài ngây thơ là vậy, thế nhưng thật ra cũng mưu mô gớm lắm, ai mà ngờ được. Nhưng Phương chợt nghĩ: hay đó chỉ là một thông tánh của loài gà? Ờ, biết đâu chừng, chớ lẽ nào chúng lại không ngoan đến mức biết giở cả trò lường gạt người ta hay sao? Vả lại về khoản nói dóc thì anh Ba trứ danh nhứt nhà đấy! Còn ai lạ gì cái mồm ba hoa láo khoét của ông ấy chứ.

Lúc đầu Hà còn sốt sắng phụ với Phương lo chăm sóc gà, nhưng vài ngày sau nó đã tỏ vẻ chán nên mỗi khi Phương thức dậy lo cho gà thì hắn chỉ nằm cuộn mình trong chăn ấm nệm êm để ngủ nướng, nghĩ coi tức không chớ? Nhưng Phương chẳng thèm nhờ nó, một mình Phương lo cũng được và nghĩ rằng sau này nếu có kết quả gì thì chỉ Phương độc quyền được hưởng thôi, còn mấy lời hứa lúc đầu kể như "nơ pa", vì công lao nuôi gà của Phương lớn lắm chớ chẳng vừa đâu. Nghĩ như thế nên Phương vẫn không nản lòng, ngày ngày vẫn làm đầy đủ bổn phận một vị "chủ nhơn" của đám gà. Bởi vậy bầy gà đã quen với Phương, nên mỗi khi vừa thấy bóng dáng Phương đến gần là chúng mừng rỡ nhốn nháo, miệng không ngớt kêu vang lên. Nhiều con lại cả gan vỗ vỗ đôi cánh bé bỏng đòi nhảy lên thành chuồng để đón mừng Phương nữa. Những lúc đó Phương cảm động và thương chúng ghê! Phương thấy loài gà cũng giống như đứa trẻ sơ sinh, tuy còn nhỏ dại nhưng cũng biết mến hơi người nào đã nuôi nấng, đã ôm ấp nâng niu nó, còn nếu sang tay người khác thì chẳng bao giờ đứa bé chịu cho ẵm bế cả. Đó, lý do khiến Phương thích nuôi gà chỉ giản dị có thế, và những sự trìu mến mà đám gà dành cho Phương đã là mối khích lệ không nhỏ trong việc Phương nuôi chúng, và cũng bởi thế mà nhiều buổi sáng vì mải mê ngắm mấy chú gà tí hon khiến Phương quên cả đánh răng súc miệng...

Đang miên man ngồi nghĩ ngợi cạnh chuồng gà, chợt có tiếng nói vang lên làm Phương giật mình:

- Thôi chứ cô nương, lo rửa mặt rồi ăn lót lòng đặng phụ với tôi làm công chuyện nữa chớ, sáng nào cũng đợi nhắc hết. Con nhỏ này coi vậy mà mê gà quá hén, thứ gà đen thui thủi mà tối ngày cứ đeo theo hoài!

Đó, má lại ghẹo đám gà của Phương nữa rồi, nhưng chả sao, miễn là Phương rán nuôi thế nào để còn đủ mười con là được, và khi chúng đã "trưởng thành" nếu là chàng gà trống thì mỗi sáng Phương sẽ nhờ tiếng gáy "ò... ó... o... ò....o... " của cu cậu để dậy sớm chớ không ngủ trễ đến 7, 8 giờ như lúc trước. Còn nếu là nàng gà mái thì mỗi ngày Phương sẽ có dịp ra chuồng nhặt mấy cái trứng xinh xinh, hồng hồng vô khoe với má, với anh Ba, vì hai người này suốt ngày cứ hùa nhau để chế riễu đám cục cưng của Phương hoài hà! Phương vẫn thường tự an ủi mình như vậy mỗi khi có ai công kích bầy gà. Lúc đó cả nhà Phương và cả cái con Loan vô duyên đáng ghét nữa, sẽ hết dám chê cười đám "con gái đen nhà quê" này ; mà ai cũng phải lè lưỡi thán phục tài nuôi gà số dách của Phương. Chu choa ôi! Mỗi khi nhắm mắt lại hình dung đến giây phút "huy hoàng rực rỡ" ấy là Phương cảm thấy một niềm hãnh diện dâng cao trong lòng pha lẫn nỗi vui sướng rào rạt. Bất giác Phương khẽ mỉm một nụ cười thật tươi và tự nhiên thấy trong lòng hăng hái phấn khởi lạ...


HÀ CHINH       

(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 103, ra ngày 1-4-1969)

Thứ Ba, 16 tháng 4, 2024

Xin nghìn Đời Là Bé

 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Xin nghìn đời là bé
Cô bé tuổi bình minh
Tóc hai đường ngôi rẽ,
Áo lụa mới trắng tinh.

Xin nghìn đời là bé
Đôi mắt như hồ thu
Rộn ràng chân chim sẻ
Trên cỏ đọng sương mù

Xin nghìn đời là bé,
Cô bé rất hiền ngoan
Ngày qua ngày lặng lẽ,
Cùng sách vở miên man.

Xin nghìn đời là bé,
Ngọt ngào hương ô-mai
Trên đôi môi nở hé
Trăm nụ cười mê say.

Xin nghìn đời là bé
Cô bé tuổi hồn nhiên
Thu theo mẹ đi lễ
Ngoan hiền như con chiên

Xin nghìn đời là bé,
Rực rỡ đôi má hồng
Tan học về khe khẽ
Hát lời ca mênh mông.

Xin nghìn đời là bé
Cô bé tuổi rong chơi
Hay làm nũng bố mẹ
Mỗi khi lòng rộn vui

Xin nghìn đời là bé
Loài chim nhỏ dịu dàng
Đẹp xinh như bức vẽ
Cô bé tuổi tròn răng.

                              THẢO
                             (Phú Lâm)

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 124, ra ngày 1-5-1974)

Chủ Nhật, 14 tháng 4, 2024

Lá Cây Xanh

 

Buổi chiều đến, cô bé mở tung cánh cửa sổ trên lầu cao. Cô bé ngồi đó, tay chống lên cằm tư lự. Cô bé bứt tung giải lụa hồng để mái tóc lấm chấm vai xõa ra. Cô bé khẽ chớp mắt mơ màng, ánh mắt như một cánh sao nhỏ và lung linh sáng. Cô bé đang tập làm người lớn đấy, bởi vì lứa tuổi mười ba này, má vẫn cho là bé bỏng.

Những hàng cây trước nhà cao và lá bay lả tả đẹp như ở công viên. Gió lùa vi vu qua vườn, lùa tung cả mái tóc đen vừa mới dài xuống. Cô bé nghe như gió đang nhìn vào đôi mắt đen láy của cô mà mỉm cười. Cô bé mong gió mang lại mây hồng trên núi Ngự Bình, hoa sim thơm thoang thoảng trên đồi Vọng Cảnh. Và cô bé lắng nghe, gió mang thêm tiếng chuông giáo đường thánh thót, ngân nga. Cô bé chắp đôi tay bé bỏng, niềm tin yêu về tràn ngập tâm hồn. Cô bé nhớ những ngày tháng đi xa, cô bé có những người bạn hiền và ngoan buổi bình minh ngồi trên băng đá nhà trường nghe chuông đổ dồn dập, ăn bánh mì, uống nước ngọt và đọc chuyện người tiên.

Gió lại đến mơn man tóc cô bé, gió buổi chiều thật hiền. Gió thì thào nói chuyện. Giọng ngọt ngào và ngây thơ như búp bê Patsy trong tủ kính. Cô bé thích nghiêng nghiêng mái tóc để lá rớt lên trên, để mỉm cười mà gió không trông thấy, để nắng chết buổi chiều hong lên tóc, đẹp như cả một bài thơ.

Mây trên đỉnh núi xa vời có lẽ hồng và đẹp lắm nhỉ, hồng hơn cả giải lụa buộc tóc này. Gió ơi, mang lại cho cô bé đi, để cô bé may áo cho búp bê, may áo cho má. Cô bé quay nhìn hướng khác, trong thành nội bây giờ chắc hoa nhãn rụng đầy mặt đất, cột cờ cao và màu đại nội buồn bã ghê lắm. Cô bé có một người bạn ở trong đó, đi học trường Thành Nội, mái tóc ngắn và váy đầm xinh ơi là xinh. Người bạn đó chưa hề nói chuyện với cô bé bởi vì hai đứa không quen nhau và cũng chẳng biết nhau bao giờ, song cô bé thích và yêu người bạn đó, người bạn mà cô bé tự vẽ lấy trong trí và mơ mộng một mình thôi. Ơ kìa, sao gió cười khúc khích? Gió muốn chế nhạo tưởng tượng của bé chắc?

Cô bé giận dỗi quay mặt, gió len lén lảng ra xa như cô bé khi bị má mắng. Cô bé để mặc gió buồn, cô bé để hồn lang thang trên mấy từng trời cao, mây hồng quyện lấy đôi chân bé bỏng, những nàng tiên chắc bận hái đào nên quên, để cô bé thơ thẩn nhìn từ trên cao xuống, không gian dịu dàng màu xanh ngắt.

Cô bé nhớ một lần được đi trên tàu, buổi bình minh nắng trải vàng óng ánh mặt nước. Cô bé đã nằm chống tay lên má, nhìn rất lâu, nhớ rất kỹ màu nước xanh thăm thẳm có mạ vàng ấy, sóng nhỏ nhấp nhô, trông đẹp và dễ thương ghê. Cô bé nhìn sang bên bờ, biển dạt dào dậy sóng, bọt bắn tung tóe lên trời. Những con sò màu hồng màu tím nhàn nhạt bị xô vào nằm trên bãi cát trắng. Chiếc tàu lắc lư làm cô bé hơi chóng mặt song cô bé vẫn thích đi tàu và mơ mộng làm sao, cô bé ước được trở thành chú thủy thủ ngồi trên buồng lái. Cô bé ao ước được ngủ một đêm trên tàu, chắc là sao ở biển sáng và đẹp hơn sao ở lục địa (???). Có một người ngồi trên cao nhất thổi ac-mô-ni-ca làm cô bé ngây say như uống một ít bia có bọt nổi trắng. Có lẽ tiếng kèn ấy ban đêm cũng hay hơn ban ngày nhiều lắm...
 
Cô bé ơi! Tiếng gió gọi rồi. Nhưng không phải, không phải gió, đó là tiếng gọi hoàng hôn. Hoàng hôn đến! Thướt tha với màu áo xám nhạt có dát nắng chiều vàng. Gót chân hoàng hôn đặt bước đầu tiên ở dưới những tàng cây rậm rạp, rồi dần dần lên hôn cô bé, xua đuổi tia nắng sót sau cùng. Đám hoa lưu ly dưới vườn xạc xào rung động, hoa đổng thảo bối rối núp dưới lá xanh. Có lẽ giờ đây, trên đồi Vọng Cảnh, hoa sim cũng sợ hãi vô cùng. Cô bé muốn lên đó, dang đôi tay che chở cho sim, ru sim ngủ như má ru em bé và hôn chúng như cô bé từng hôn má vậy. Mấy chị học trò nhà ở xa đang đi thật vội, ba hối hả cho xe đi nhanh ở đường Lê Lợi và mấy con chim nhỏ của cô bé đang ríu rít trở về. Cô bé thấy mình lang thang ở bờ sông Hương - nơi mà cô bé vẫn ra ngồi ăn bánh - Dưới sông, người ta đốt đèn trong đó, dèn rọi xuống sông y như có hai nguồn ánh sáng. Bên bờ kia, thành phố đèn màu rực rỡ. Cô bé nhớ một tối nọ, cô bé đi với ba má ngang qua những dãy phố đó, rồi cô bé gặp Patsy. Patsy rực rỡ với màu mắt xanh và má màu hồng, váy đầm trắng tươi xinh như cô bạn trong Thành nội. Cô bé nhất định không đi nữa và má phải mua Patsy về cho cô bé. Để bây giờ, mỗi ngày Patsy được thay một cái áo, mỗi bữa ăn sữa bột của em bé mà cô bé giấu một ít trong bình nhựa. Sáng nào, uống sữa pha ô vanh tin, cô bé cũng cho Patsy vài giọt trong một chiếc tách bé tẻo teo. Cô bé cho Patsy tất cả cái gì mà cô bé có, con gà hai đứa chơi chung... ban đêm ngủ cạnh nhau. Khi cô bé đọc sách, Patsy cũng ghé đọc, cô bé viết Patsy cũng ghé nhìn. Chỉ có khi nào cô bé học bài đọc oang oang, Patsy mới lánh vào tủ kính, chơi với con gà cho đỡ buồn.

Cách đây mấy tháng, khi cô bé chưa tập làm người lớn và cũng chưa nghỉ hè. Những ngày không học, cô bé dắt Patsy xuống vườn chơi buôn bán với gió. Gió hái lá muối lá thông xuống bán, cô bé trả tiền bằng giấy xanh đỏ. Gió thổi tung cả lên, lấm tấm đầy vườn. Nếu má trông thấy được là má la um sùm song má không đánh cô bé bao giờ, con gái cưng nhất mà, má chỉ có cô bé với em bé trai chớ mấy. Chỉ có ba mới nghiêm và hay làm cô bé sợ.

Lá dưới vườn không xanh nhưng nhiều, kêu xào xạc dưới gót chân cô bé. Cô bé thường nhón gót đi rất nhẹ, về mua thu, đôi guốc hồng xách ở tay để khỏi nghiến lá và mấy con kiến vàng đi làm việc chăm chỉ - chăm chỉ hơn cả ba, cô bé nghĩ thầm như vậy. Vì đôi khi nhà có giỗ, hay nhà ai mời đi ăn tiệc, ăn cưới, ba vẫn xin nghỉ để đi. Cô bé hay trách ba ham ăn tiệc mà bỏ việc. Ba cười hỏi lại: vậy con có bao giờ bỏ học ra ăn bánh ở bờ sông không? Xấu hổ, cô bé cúi gầm mặt, rồi bỏ lên lầu, phụng phịu...

Mùa hè trời nóng, nóng bực bội, nhưng buổi chiều thì gió thổi man mác. Lòng cô bé rộng mở, hoàng hôn đến không chậm. Tất cả những ý nghĩ dịu dàng trộn lẫn với nhau khiến cô bé bâng khuâng hớn hở. Có một cái gì rất xanh nhưng là lạ đặt lên trái tim non. Hay tuổi thơ giận dỗi bỏ đi thật rồi vì cô bé muốn làm người lớn? Làm người lớn cũng thích lắm chứ. Cô bé muốn mặc áo dài, đội nón lá để mang một hình ảnh rất ư là Huế. Song má tiếp tục may những cái áo đầm màu xinh và rực rỡ, đan những chiếc áo len dày hoa bướm trộn lẫn nhau và những khăn choàng ca rô xanh xanh đỏ đỏ. Cô bé tiếp tục mang những màu sắc rộn rịp đó. Sung sướng chảy ngọt ngào làm cô bé lim dim mắt. Đâu đây như văng vẳng tiếng đàn du dương của anh Trường trong một buổi chiều hè nắng vàng vụt tắt.

Những vì sao mới đến bao giờ cũng nhút nhát e dè, chơm chớp trên nền trời xanh thẫm thật dễ thương, cánh sao mong manh yếu ớt quá. Cô bé đâm lo lắng bâng quơ. Cô bé sợ sao chìm lịm đi, tội nghiệp và tuyệt vọng. Một cánh sao băng nhanh, mang theo một sự huyền bí cho cô bé. Cô bé tìm tòi nó, song cô bé ơi, làm sao tìm ra một vì sao mới đổi ngôi?

Tim cô bé nhảy thánh thót đều đặn. Cô bé khôn để ý ánh đèn sáng dưới nhà. Căn phòng này vẫn tràn ngập bóng tối. Cô bé nhìn những vì sao lu mờ nhất, cô bé thương chúng, tưởng chừng chúng đau mắt. Không như cô bé, đêm nào cũng nhỏ thuốc, mắt cô đen và trong sáng, vui vẻ và tròn như mắt chim bồ câu.

Hình như có tiếng má ba gọi dưới nhà. Song cô bé không nghe thấy gì hết. Cô bé tựa đầu lên thành cửa, mắt khép lại, êm ái. Gió đến ru cô bé bằng ve vuốt dịu dàng và bài hát ca tụng biển cả triền miên. Cô bé ngủ với vẻ mơ màng, nhưng không suy tư, không nghĩ ngợi. Tóc mềm chảy xuống hai vai. Không, tuổi thơ còn đó chưa bỏ đi, vì cô bé vẫn ngủ khi chờ bữa ăn tối, vẫn ngủ khi ngắm trời sao, và trong giấc ngủ, dường như cô mơ thấy mộng đẹp.


ĐOÀN PHƯƠNG MAI     

(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 151, ra ngày 15-4-1971)
 

Thứ Bảy, 13 tháng 4, 2024

Lòng Chân Thật

 

 Các em thân mến,

Ngày xưa, hồi thời Trung Cổ, bên Pháp, có một người lái buôn nọ một hôm đem hàng hóa đến chợ phiên bán và thu được nhiều tiền. Anh ta bỏ tất cả những đồng tiền vàng sáng chói vào trong một cái bao to lớn bằng da, rồi vui vẻ rảo bước về quê nhà.

Khi đi ngang qua thành phố A-miêng, cũng như thường lệ, anh ta ghé vào nhà thờ, quỳ trước tượng Thánh Mẫu, khấn lễ, chiếc bao da để bên cạnh. Lễ xong, anh ta dậy ra về, đầu óc còn mải mê một ý tưởng gì đó nên anh ta quên xách cái bao da đựng tiền bán hàng của mình.

Trong thành phố này, có một nhà trưởng giả cũng thường hay đến chiêm ngưỡng trước tượng Thánh Mẫu. Cũng hôm ấy, khi người lái buôn vừa bước ra khỏi nhà thờ, nhà trưởng giả đến quì ngay chỗ anh nọ vừa rời đi và và gặp chiếc bao đựng đầy tiền.

Ông ta ngạc nhiên, lẩm bẩm: Ai lại bỏ quên tiền nhiều như thế này? Mình phải làm sao đây? Cho mọi người biết, thế nào cũng có nhiều kẻ giả vờ vừa đánh mất, đến xin nhận lãnh.

Sau một lúc suy nghĩ, ông ta mang bao tiền về nhà và bỏ vào tủ cất cẩn thận. Đoạn ông ta lấy phấn viết trên cửa ngay trước nhà một hàng chữ to: Ai đánh mất vật gì, xin hỏi nơi đây.

Người lái buôn đi một khoảng đường mới sực nhớ vừa bỏ quên bao tiền trong nhà thờ. Anh ta hoảng hốt, chạy ngay lại chỗ cũ, hy vọng bao tiền vẫn còn ở đấy. Đến nơi, không thấy chiếc bao, ông ta bèn tìm ông mục sư để hỏi thăm, rốt cuộc cũng không được tin tức gì thêm. Chán nản, anh ta đi lang thang khắp nẻo trong thành phố.

Trong lúc đầy tuyệt vọng, may mắn thay anh ta lại nhìn thấy hàng chữ phấn trước nhà ông trưởng giả và ông này đứng cạnh đấy.

Người lái buôn mở lời:

- Thưa ông, xin lỗi ông, có phải ông là chủ nhà này không?

Người trưởng giả đáp:

- Thưa đúng, nhưng chẳng hay ông có việc chi?

Người lái buôn vội vã:

- Xin ông vui lòng có thể cho tôi biết ai viết hàng chữ này.

Người trưởng giả giả vờ: Có lẽ người nào đó đi ngang qua đây, rắn mắt viết đùa chơi. Vậy chớ ông bạn có mất vật gì chăng?

Người lái buôn than thở: Tôi vừa đánh mất cả gia tài của tôi.

Người trưởng giả làm như ngạc nhiên: Cả gia tài? Ông để ở đâu mà bị mất?

Người lái buôn bèn thuật câu chuyện và mô tả chiếc bao da đựng đầy tiền vàng.

Biết rõ đấy đúng là người vừa mất bao tiền, người trưởng giả bèn mời anh lái buôn vào nhà, mở tủ lấy bao tiền vui vẻ trả lại. Người lái buôn nhận thấy ông trưởng giả lòng đầy chân thật, đứng suy nghĩ một lúc: Thật mình không xứng đáng giữ bao tiền bằng ông này, rồi nói:

- Thưa ông, tôi xin biếu ông bao tiền này. Nó vào tay ông hữu ích hơn ở tay tôi. Xin ông nhận cho.

Người trưởng giả đáp lại: À, ông bạn, ông cầm lấy tiền ông, tôi không có quyền nhận.

Người lái buôn nói mau: Không, tôi không lấy đâu, tôi xin đi đây để lòng tôi được thanh thản.

Rồi anh ta bỏ chạy.

Thấy vậy, người trưởng giả vừa đuổi theo vừa la to: Ăn trộm! Ăn trộm! Bắt lại giùm!

Những người láng giềng nghe tiếng chạy nắm được anh lái buôn dẫn tới nhà trưởng giả, rồi hỏi:

- Người này lấy gì của ông?

- Dạ thưa, anh này cướp của tôi danh dự và lòng chân thành mà tôi quyết giữ trọn đời tôi.

Rồi người trưởng giả kể lại tất cả câu chuyện như vừa xảy ra. Những người đứng xung quanh, khi biết rõ sự thật, liền bắt buộc anh lái buôn nhận lạ bao tiền của anh ta.

Các em thân mến,

Thuật lại chuyện cổ tích trên, chúng tôi muốn các em rõ từ xưa, lòng chân thật bao giờ cũng được quí trọng.

Giả dối, lường gạt, gian tham là điều làm cho mọi người ghét và xa lánh mình.

Vậy muốn được cảm tình và sống thành công, các em lúc nào cũng phải chân thật.

 
Thân mến chào các em            
NGUYỄN HÙNG TRƯƠNG       

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 122, ra ngày 1-3-1974)

Thứ Năm, 11 tháng 4, 2024

Không Khí Bất Hòa Trong Gia Đình

 

Thư của em Đy Ly Quảng Tín.

Gia đình em có cha mẹ, anh hai và em. Hai năm nay có thêm chị dâu. Hồi đầu chị rất quí em và em rất thương chị. Nhưng mới đây từ khi chị có con, chị trở nên gắt gỏng, la em. Cha mẹ cưng và hiểu em nên có la chị, thì chị cãi rất hỗn hào. Anh hai đi lính, lâu lâu về thăm, em nói thì anh buồn, thấy thế, lúc sau này anh có hỏi em phải giấu sự bất kính của chị đối với cha mẹ. Chị cứ đòi ở riêng...

Trả lời: Xưa các cụ có câu thế này: "giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng". Ám chỉ rằng em chồng là dữ và ác với chị dâu lắm. Nhưng đấy là chuyện ngày xưa, ngày mà bố mẹ chồng có thể đuổi con dâu đi, bắt con trai phải bỏ vợ. Nay thì tiểu gia đình được tôn trọng hơn và cha mẹ ít có quyết định dùm cuộc đời con cái như xưa. Thành ra có nhiều khi con dâu lại lấn lướt cả mẹ chồng. Điều đó không nên. Đối với cha mẹ chồng phải kính trọng như cha mẹ đẻ, mới là con nhà có giáo dục đàng hoàng. Xét hoàn cảnh em, chị thấy dạo đầu chị dâu rất tốt. Chị chỉ mới đổi tính sau này mà thôi.

Chị nghĩ thế này, có lẽ chị ấy là người tốt, chị ấy về làm dâu trong gia đình em, chị đã xử sự tốt và hiếu thảo nên em cũng thương chị. Rồi vì anh em đi lính xa nhà lâu, chị cảm thấy bơ vơ, lại lúc sinh đẻ, ốm đau, tất nhiên là chị cảm thấy xa lạ trong gia đình em. Rồi một vài hiểu lầm nhỏ sinh giận dỗi nhau, nói nhau bằng những lời cay đắng. Cơn giận hết, lời cay đắng còn bên tai, nên mâu thuẫn ngày một trầm trọng. Lại thêm mỗi khi anh Hai về, anh Hai lại thấy gia đình bất hòa, chắc anh có rầy chị, lại khiến chị càng thêm giận dỗi và muốn đi ở riêng cho xong. Ý kiến đó lại làm mẹ giận, rồi cứ cái nhân giận dỗi nhỏ nẩy ra cái quả cãi lộn to, gia đình ngày càng thêm bất hòa.

Bây giờ, chị thấy chỉ có em là đóng vai trò hàn gắn được. Vì em còn trẻ tuổi, dễ thông cảm hơn và tính tình cũng vô tâm hơn. Em có thể giải thích để cha mẹ và chị xích lại gần nhau cho gia đình êm ấm, cho anh Hai em được yên lòng. Em nghĩ thế này nhé: là đáng lẽ em chỉ có 2 anh em thôi. Trời cho gia đình em một người con gái. Cha mẹ họ nuôi cho tới khôn lớn, rồi họ tới làm dâu nhà em, phụng dưỡng cha mẹ em, và trông nom nuôi dạy các cháu của em mang dòng họ em. Em nên đối xử sao cho chị ấy khỏi buồn tủi. Em nên tỏ cái độ lượng của người con trai, sẵn sàng cứu nguy phò yếu. Em cứ tỏ thiện chí đi vì em là con trai, lòng em rộng rãi hơn. Em hãy giơ bàn tay ra trước, và chị của em sẽ theo gương em mà tỏ thiện chí em ạ. Nếu cứ hòn bấc (nhẹ) ném đi, rồi lại có hòn chì (nặng) ném trả lại thì oán hận ngày một chất cao, sẽ không bao giờ chị em hòa nhau được, cha mẹ thêm buồn, mà anh Hai em khổ vì biết bỏ ai, bênh ai bây giờ. Đức Phật đã nói: "Lấy đức báo oán, oán ấy tiêu tan ; Lấy oán báo oán, oán ấy chập chùng". Người xa lạ ta còn tha thứ, sao trong tầm tay ta, là chị ta, mẹ của cháu ta, chị ta chết ta còn phải để tang, ta không sẵn sàng tha lỗi cho chị ấy phải không chú em của chị.


Chị ĐỖ PHƯƠNG KHANH     

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 43, ra ngày 18-6-1972)

oncopy="return false" onpaste="return false" oncut="return false"> /body>