Thứ Ba, 30 tháng 6, 2015

Qua Giấc Mù Sương (KỲ IV)



Ba thở ra:

- Lạ thật! Một kẻ man rợ đến đâu cũng không ăn thịt mèo. Ba quyết tìm cho ra nguyên nhân chuyện lạ này.
 
Bữa cơm dọn ra. Ba má ăn qua quít còn em thì vẫn húp cháo và ăn bánh mì. Xong bữa, ba mệt mỏi nằm nghỉ ở nhà ngoài. Má lo dọn dẹp ở dưới bếp. Bây giờ là lúc thằng Mai hiện ra. Nó liếm quanh mép như thèm thuồng một cái gì. Em giật mình. Lần này thì em cảm thấy sợ nó. Nó đấm tay xuống nệm, bực tức nói:
 
- Hỏng cả công trình!
 
Em hỏi:
 
- Hỏng gì?
 
- Ba ném thịt mèo Na vô thùng rác!
 
Em há hốc miệng nhìn thằng Mai. Nó gắt gỏng:
 
- Trí không biết à? Ngu quá vậy?
 
- Mai… Mai???
 
- Tôi đã làm thịt mèo Na để làm món “mèo nướng”.
 
Em ôm đầu, bịt chặt lấy tai. Khủng khiếp quá đi! Ngoài sức tưởng tượng của em. Thằng Mai đến ngồi bên chân em. Em sợ hãi xích ra nhưng khối bột nặng như đè em xuống. Thằng Mai bĩu môi:
 
- Không cần. Ta vẫn còn hơn hai nghìn đây, tha hồ ăn phở.
 
Em kêu lên một tiếng nhỏ trong cổ họng. Thằng Mai móc trong túi quần ra một xấp giấy bạc, thích thú nói:
 
- Trí không hiểu hở? Tiền trong tủ của má chứ đâu! Gớm, Trí thông minh chỗ nào không biết, mấy chuyện này Trí khờ quá! Vậy mà hồi sáng nay ông Hiệu trưởng vào phát bảng danh dự cho Trí đó!
 
Em nắm chặt tay thằng Mai:
 
- Mai cũng đi học nữa sao?
 
- Ừ.
 
- Đúng rồi! Tháng trước tôi nhiều điểm nhất lớp. Tôi hạng nhất phải không? Bảng danh dự đâu?
 
Thằng Mai lục trong túi quần, rồi lắc đầu:
 
- Chắc tôi liệng mất rồi.
 
Em nghẹn cả họng, nhìn thằng Mai, giận tràn lòng. Em thở dài:
 
- Tôi không thể tin Mai được.
 
Mai cười:
 
- Không tin? À, vậy thì ngày mai tôi sẽ làm cho Trí tin.
 
Rồi nó đứng dậy đi đến gần chân bàn đá hất nhúm lông mèo. Em kêu:
 
- Mai!
 
Nhưng nó đã tan biến mất rồi.


Tám

Cô giáo Hòa đợi chờ thắc thỏm. Bầy học trò đã vào lớp hết mà vẫn chưa thấy bé Trí. Có một chuyện gì đã xảy đến cho thằng bé chăng? Trăm nghìn câu hỏi giăng đầy óc cô. Vạn mối hồ nghi làm cô thấy mình như đang ở trong một cơn khủng hoảng. Một sự thật nào sắp hé màn? Nhưng tất cả chỉ làm cô rối óc thêm. Nếu cô không ở gần nhà cô y tá Trang? Nếu cô không thấy bức tượng chú lính có đề “Thân tặng chị Trang – Em Trí”? Cô đã sửng sốt khi nghe Trang nói: “Đây là món đồ chơi của một cậu bé rất dễ thương, bị xe đụng gãy chân, phải bó bột”. Trang cả quyết rằng mình không bao giờ nghe lầm tên của cậu bé bệnh nhân dễ mến là Trí, trường của cậu bé học là trường Việt Ấu, lớp của cậu bé là lớp ba. Khi cô giáo Hòa bảo rằng cậu bé Trí không bị bó bột nằm nhà, mà vẫn đi học và đã gây cho cô nhiều phiền toái, Trang đã lạ lùng nhìn cô giáo và băn khoăn:
 

- Chị… chị vẫn khỏe trong người chứ?
 

Cô Hòa cười khổ sở:
 

- Trang nghĩ rằng chị nói tầm bậy à?
 

Trang cười:
 

- Dạ không. Nhưng chính em cũng đang thắc mắc đây. Hay là… để ngày mai đến săn sóc cho Trí, em bảo Trí viết vài chữ thăm chị?
 

Cô Hòa mừng rỡ đồng ý ngay:
 

- Trang nhớ nói với nó là chị… cô Hòa, chị ở gần nhà Trang…
 

Nhưng rồi bây giờ cô vẫn không thấy an tâm chút nào. Cô hoang mang, lo lắng, như người đang chờ đón một tai họa sắp xảy đến cho mình.

Kìa! Trí đã đến! Cô giáo Hòa sửng sốt. Vẫn thằng bé Trí xinh đẹp mọi ngày. Nó đi đến chỗ ngồi và liếc nhìn lên cô. Tia mắt ẩn giấu một sự độc ác. Cô Hòa cúi xuống, nghe một nỗi sợ hãi vô cớ hiện đến. Cô đứng dậy viết bài Sử Ký‎ lên bảng. Cô vẫn cảm thấy đàng sau lưng, có đôi mắt tinh quái của Trí nhìn chòng chọc vào cô.
 

Khi chép xong bài học, cô Hòa đến bên Trí, nói thật khẽ:
 

- Trí, con hãy vui lòng trả lời câu hỏi của cô nhé!
 

Trí ngước mắt nhìn cô, gật đầu ra vẻ ngoan ngoãn. Cô Hòa lấy lại nét tự nhiên, hỏi:
 

- Con có một người anh hay em sinh đôi nào không?
 

- Không.
 

Thằng bé đáp cụt ngủn làm cô Hòa lùi lại một bước.
 

- Nhà con ở đâu?
 

- Đường Hoàng Diệu, số 3300…
 

- Ba má con có đứa con nào nữa không?
 

- Không.
 

- Trí là con một?
 

Trí gật đầu, thản nhiên. Cô ngạc nhiên thấy tập vở của nó trắng tinh. Cô giục:
 

- Trí chép bài đi!
 

Rồi cô bước lên bục, lòng rối như tơ vò. Cô cầm cây thước kẻ lên, sửa soạn giảng bài. Thấy Trí cúi đầu trên trang giấy, hí hoáy viết, cô bỗng hành động một cách không chủ ý, đưa tay sờ mái tóc. Cô giật mình. Cây bút bằng vàng, mà cô luôn luôn giắt trên đầu, đâu mất rồi? Cô vội vã lục lọi ví tay, trong sách vở, vẫn không tìm ra. Những đôi mắt ngây thơ nhận ra vẻ hoảng hốt của cô, cũng nhìn lên, chờ đợi. Cô Hòa run giọng nói:
 

- Các con, cô bị mất cây bút bằng vàng, các con hãy tìm giúp cô.
 

Những chiếc cặp được dốc ngược. Những hộc bàn được xem xét. Nhưng vẫn không thấy cây bút. Cô Hòa đặc biệt chú tâm quan sát Trí. Nó cũng dốc cặp, lục hộc bàn, nhưng thỉnh thoảng nó nhìn cô bằng tia mắt bén như dao. Cô nói, trong khi cổ họng khô đét:
 

- Cô không bao giờ rời cây bút đó. Sáng nay khi vào lớp cô vẫn còn nó ở trên đầu. Các con cũng thường khen và đã biết đó là di vật độc nhất mà mẹ cô đã để lại cho cô. Cô qu‎ý nó lắm. Nếu cô đã làm rơi và có trò nào lượm được, hãy đem lên cho cô xin lại.
 

Những gương mặt ngây thơ nhìn nhau. Không có ai đáp lại lời cô. Đứa bé nào trông cũng vô tội. Cô lại đưa thêm một giải pháp:
 

- Bây giờ, cả lớp làm theo lời cô, úp mặt xuống bàn hết. Cô cũng quay mặt vào tường. Trò nào đã giữ cây bút của cô, hãy tự động đem lên để ở bàn cô. Cô sẽ không phạt, cô sẽ không tìm hiểu trò đó là ai.
 

Tất cả học sinh làm y lời cô. Cô Hòa quay lưng lại, nhìn vào tường. Cô tin rằng đứa học trò dại dột nào đó sẽ không bị xấu hổ và tự động lên trả bút cho cô.

Năm phút qua đi. Cô Hòa xoay người lại. Cô ngạc nhiên vô cùng, vì không có gì khác ngoài mấy quyển sách để trên bàn. Cô nói:
 

- Ngẩng mặt lên hết đi! Cô buồn lắm, không lẽ cô phải khám xét từng trò? Cô sẽ không phạt nếu…
 

Cô Hòa im bặt. Cô vừa nhìn thấy trên tay của Trí, cây bút vàng lấp lánh. Trí đang xoay xoay cây bút và nhìn cô bằng ánh mắt trêu chọc. Cô không thể bình tĩnh được, hấp tấp bước xuống. Cô giật mạnh cây bút trên tay Trí. Thằng bé la lên:
 

- Á! Cô làm gì vậy?
 

Cô Hòa thở dồn dập, nói:
 

- Tại sao Trí không đem lên trả, hở?
 

- Bút của em, bút của em.
 

- Láo!
 

Cô tát Trí một cái tưởng chừng tóe lửa. Thằng bé khóc òa lên, gào to:
 

- Bút của em mà! Cô nhận lầm rồi!
 

- Còn chối nữa hả? Cái gì đây?
 

Con bé Phương Hương ngồi cạnh Trí, kêu lên:
 

- Thưa cô, viết của Trí mà!
 

Cô Hòa nhìn lại tay mình. Không phải cây bút của cô, mà là cây bút chì của Trí. Cô ngơ ngác. Mắt cô đã lòa chăng? Không, rõ ràng cô thấy cây bút vàng mà! Trí vẫn khóc nức nở như bị oan ghê gớm.

Chuông reo tan học như những sợi thủy tinh nhức nhối chạy vào tai cô, lan đầy óc. Cô cho các học trò về, và uể oải lên ngồi trên ghế. Lần đầu tiên trong đời một nhà giáo, cô thấy chán nản và gớm ghiếc một lớp học. Nó đã làm cô mệt mỏi và căng thẳng. Hay là vì cô đã già nua, đã lú lẫn? Đến những phút giây này cô mới thấy nghề giáo là một nghề nhiều đau khổ.

Kìa! Bây giờ thì không phải cô nhìn lầm nữa. Cây bút vàng của cô lại xuất hiện trên tay của Trí. Cô dụi mắt hai, ba lần và vẫn thấy đó là cây bút vàng. Thằng bé nhìn cô, kiêu hãnh. Cô đẩy xô những bàn ghế học trò, chạy đến nắm tay Trí, hét to:
 

- Đưa cây bút đây!
 

Thằng bé thản nhiên đưa ra: cây bút chì. Cô Hòa mở to đôi mắt nhìn tay nó, nhìn mặt nó, rồi nhìn toàn thân nó. Cô nói như nói sảng:
 

- Mày… mày là ai?
 

- Dạ, em là Trương Đức Trí, con của ông…
 

- Câm đi! Mày là ai? Mày không phải là bé Trí dễ thương. Mày là người… hay là… quỷ?
 

- Ơ! Bà này kỳ quá!
 

Thằng bé vùng vẫy trong tay cô Hòa. Và cô – con người điềm tĩnh, ưu ái đó, nhà giáo mấy mươi năm trong nghề chưa bao giờ giận dữ với một học trò đó – đã túm lấy thằng bé mà đánh túi bụi như một kẻ điên. Cô vừa đánh, vừa khóc… Nó cũng kêu la đau đớn… Cho đến khi ông Hiệu trưởng xuất hiện ở cửa lớp và la lên:
 

- Bà Hòa! Xin bà dừng lại!
 

… thì cô Hòa vẫn không nghe gì hết. Ông Hiệu trưởng chạy vào, kéo Trí ra. Thằng bé khóc tru tréo. Cô giáo Hòa thở hổn hển:
 

- Mày là ai? Mày là ai?
 

Ông Hiệu trưởng nói:
 

- Kìa! Bà Hòa! Đây là bé Trí. Bà nói gì vậy?
 

Trí nức nở:
 

- Con cầm cây bút này, mà cô cứ nhất định là con ăn cắp cây bút vàng cài tóc của cô. Cô đánh con…
 

Nó vừa nói vừa đưa cây bút chì ra. Cô Hòa rên rỉ:
 

- Không! Nó nói láo…
 

Thằng bé nép người bên ông Hiệu trưởng như sợ hãi lắm. Ông Hiệu trưởng bảo:
 

- Con đi về đi! Có thầy đây, con đừng sợ.
 

Trí chạy vụt ra khỏi lớp, quên cả cặp vở. Ông Hiệu trưởng bấy giờ mới tỏ thái độ. Mặt ông rắn đanh lại, ông nói:
 

- Tôi thật không ngờ.
 

- Thưa ông…chuyện gì?...
 

- Còn chuyện gì nữa? Một cô giáo hành hung học trò sau giờ học. Bà hãy nhớ lại, bà đã đánh nó bao nhiêu lần, thưa bà Hòa?
 

Cô Hòa cúi đầu không đáp. Ông Hiệu trưởng gằn giọng:
 

- Nguyên tắc căn bản của một nhà giáo là chỉ đánh học trò với tính cách răn dạy và yêu thương. Một đứa bé lớp ba chỉ chịu đựng một thước kẻ vào tay là đủ. Bà đã đánh nó như đánh một kẻ thù.
 

Cô Hòa kêu lên:
 

- Tôi không hề thù nó. Ông Hiệu trưởng hãy nghe tôi…
 

- Bà Hòa! Tôi không xét đoán oan cho bà, vì tận mắt tôi đã trông thấy những lần bà đánh bé Trí. Dù với lý do nào đi nữa, tôi cũng không thể chấp nhận hành vi đó. Tôi không thể nói hơn nữa. Xin bà tự giải quyết.
 

Rồi ông đi nhanh ra khỏi lớp. Cô Hòa bước theo, nói:
 

- Ông Hiệu trưởng! Ông…
 

Cánh cửa lớp đóng sầm chắn lối đi của cô. Cô ngồi phịch xuống ghế, ôm mặt khóc nức nở. Cô phải tự giải quyết? Nghĩa là cô phải rời khỏi ngôi trường này chăng? Không có con đường nào khác. Đến những phút cuối của đời dạy học, cô thấy mình cô đơn hơn bao giờ hết.


Chín

- Thưa chị, em đem cháo qua cho chị đây!
 

Cô giáo Hòa mở mắt. Gương mặt của Trang hiện mờ mờ qua khung cửa, rồi rõ dần. Trang nâng đầu cô Hòa dậy, nói:
 

- Sao chị mệt quá vậy? Chị cảm thấy trong người ra sao?
 

Cô Hòa cười héo hắt:
 

- Không, chị không sao cả. Trang hãy nói cho chị nghe, sáng nay bé Trí thế nào?
 

Trang tươi hẳn nét mặt:
 

- Vết thương của nó khá rồi. Nhưng hình như nó có vẻ buồn chị ạ! À, Trí có viết thư cho chị, khi nghe em bảo rằng em ở cạnh nhà chị.
 

Cô Hòa ngồi bật dậy, mừng rỡ:
 

- Đâu? Em đưa cho chị xem!
 

Cô run rẩy cầm lá thư của Trí. Cô mở ra, đọc: 

 “Thưa Cô,
 

Con đã làm cô buồn lòng. Xin Cô tha thứ tất cả cho con. Con sắp đi học lại để xin lỗi cô. Trí vẫn là Trí ngoan muôn đời của Cô.
 

Bé Trí”     

Hai giọt lệ lăn ra từ khóe mắt cô Hòa. Đúng là nét chữ của thằng bé yêu dấu. Nhưng qua cơn xúc động ấy, cô Hòa lại rối óc với những câu hỏi. Trí nào đã đi học? Trí nào đã bị thương? Trí nào đã phá quấy cô để đến nỗi cô phải bỏ trường? Trí nào đã được Trang săn sóc? Và Trí nào đã viết bức thư này? Trí “sắp đi học lại”, nghĩa là bấy lâu nay vắng mặt, mà tại sao lại “xin cô tha thứ tất cả”…??? Đầu óc cô Hòa xoáy lộn như cơn gió lốc. Cô nhìn Trang. Trang thì cũng không biết gì hơn ngoài một bé Trí dễ thương ở căn nhà mà cô thường đến mỗi buổi sáng. Trang không hề tin có một thằng Trí tàn ác, tinh quái ở lớp ba trường Việt Ấu. Nếu có bàn cãi thêm, chắc Trang cũng sẽ nghĩ cô Hòa là một người đã đến tuổi già nua, mất quân bình, nói những điều khó tin. Cũng như đối với ông Hiệu trưởng, thì thằng bé Trí vẫn là một đứa học trò ngoan ngoãn, vô tội. Chỉ có cô là lẩm cẩm và thù hằn với học trò. Cô đau đớn khóc một mình và chẳng biết hé răng bày tỏ cùng ai.

Trang nhỏ nhẹ nói:
 

- Thôi, em về nhé! Chị ăn hết bát cháo đi, có gì cần chị cứ gọi em. Em về dạy học mấy đứa nhỏ bên nhà.
 

Cô Hòa gượng cười gật đầu. Trang đã về, còn lại cô với nỗi buồn lớn lao. Cô nhìn khắp nhà. Ảnh của mẹ cô, ảnh của chồng cô, những người đã chết. Cô lẻ loi trong cảnh sống buồn tẻ. Có một niềm an ủi duy nhất là một đứa bé ngoan hiền và một lớp học vui như tổ chim cũng bỏ cô mà lui gót. Cô sẽ sống như một chiếc bóng trong căn nhà này hay sao? Tự nhiên cô sợ hãi. Hình ảnh thằng bé Trí hiện ra như đe dọa cô. Lần đầu tiên cô thấy căn nhà của mình rờn rợn. Cô gắng gượng bước xuống, mang dép đi ra sân.

Trời đang lúc hoàng hôn. Mặt trời gần khuất sau dãy nhà cao ở phía tây. Trong sân nhà cô, những bông hoa dường như cũng lạnh lẽo như bầu trời đỏ nắng quái trên kia. Cô bước dần ra thăm luống hoa hồng. Mấy ngày rồi bỏ quên, chắc hôm nay cây đã có nhiều hoa lớn. Nhưng kìa! Không có một nụ hoa nào cả. Cành lá chỉ còn trơ những gai nhọn. Cô ngạc nhiên bước đến gần. Có dấu cắt của dao hay kéo trên những cành cây. Cô hoảng hốt khi thấy cây kéo của cô dùng để xén lá nằm dưới gốc hồng. Cô cầm cây kéo lên. Ai đã cắt những hoa hồng của cô? Chỉ có Trang là hay lui tới nhà cô, ngoài ra không có một ai. Nhưng cô không tin Trang có thể tự tiện cắt hoa mà không xin phép trước. Trang không phải là kẻ bất lịch sự. Vậy thì ai? Cô nhìn cây kéo, rồi nhìn quanh. Trong sân vắng vẻ, chỉ có tiếng chim gọi nhau yếu ớt. Bỗng cô lùi lại, vì vừa nhìn thấy ngoài cổng có dáng thằng bé Trí. Cô vừa mừng, vừa lo sợ. Cô nhìn nó đăm đăm. Cô gặp một tia mắt tinh quái. Cô hoảng hốt, lắp bắp:
 

- Trí, trò… đến đây… làm gì?
 

Thằng bé cười thật hiểm ác. Cô Hòa bước lùi lại. Cô cảm thấy cổ họng nghẹn đắng. Cô kêu lên:
 

- Mày đi về đi! Tao ghét mày…
 

Nhưng Trí đang xăm xăm mở cổng đi vào. Cô Hòa bỏ chạy vào nhà. Cô chạy được vài bước bỗng đứng khựng lại. Trí đang đứng trên thềm nhìn cô cười ngạo nghễ. Cô há miệng, ú ớ không thành lời. Thằng bé càng cười to. Cô kinh hãi quay lưng, cũng lại thấy nó bên luống hoa hồng. Đâu đâu cũng có nó. Cô đâm đầu chạy theo một hướng bất định. Nỗi hoảng sợ làm chân cô ríu lại, và cô vấp chân té xuống…

Tiếng thét của cô Hòa làm Trang hấp tấp chạy qua. Những người hàng xóm cũng đổ xô sang. Người ta thấy cô giáo Hòa té sấp trên cây kéo của cô. Trang òa khóc bên người bạn già nua đáng kính nay đã lìa đời...


Mười

Em cố gắng nhấc đầu lên cũng không nổi. Từ sáng sớm, em nghe thân mình ớn lạnh. Em không thể làm một động tác nào hơn là nắm mở mắt, nghe tiếng đùa giỡn của trẻ hàng xóm. Toàn thân em rã rời, mệt mỏi. Em không hiểu tại sao trong khi vết thương đang lành lặn dần thì bên trong cơ thể lại từ từ suy yếu. Nhưng "bên trong" đó không phải là trái tim, là lá gan. Đối với sự hiểu biết nhỏ bé của em, thì đó hình như là cái trí óc để giúp em suy nghĩ, giúp em hồi tưởng, giúp em thương yêu... Tất cả đang sa sút. Em cũng không hiểu rõ tại sao. Không thể đổ lỗi cho vết thương ở chân. Cũng không thể đổ lỗi cho những ngày em nằm trên giường bệnh. Mà phải nói là từ ngày có thằng Mai. Khổ thay, thằng Mai không phải là một đứa nào xa lạ, đến phá quấy cuộc đời bình yên của em. Nó chính là em. Mai và Trí là một, thật dễ hiểu và cũng thật lạ lùng đối với em. Em ngạc nhiên khi thấy nó, và em cũng hoan hỉ nhận nó làm bạn suốt thời gian này. Bởi vì Trí với Mai là một. Em đau khổ biết điều đó, cũng như trước đây em đã thích thú với sự hiện diện của Mai.

Bây giờ em lại cảm thấy sợ thằng Mai thật sự. Em hết thích thú. Em hết mong chờ. Em muốn nó đừng đến với em nữa. Em đã viết thư cho cô Hòa. Nhưng lời lẽ trong thư em chắc là không chỉnh. Cô Hòa có vui lòng tha thứ cho những lỗi của thằng Mai gây ra không? Cô có biết rằng em đã khổ sở vô cùng khi thằng Mai khoe em cây bút vàng, vật yêu dấu mà cô không rời? Em phải chịu đựng nghe nó kể chuyện trêu tức cô, chuyện cô đánh nó... Trời ơi! Đối với cô, lúc này thằng học trò tên Trí là một đứa độc ác, mất dạy. Cô mà nhận được lá thư của em, cô có đọc không? Chắc cô không còn thương em một tí nào nữa. Em khóc khi nghĩ như vậy.

Ngay lúc em vừa khóc, thằng Mai đã đứng bên cạnh em. Nó cười ngạo nghễ hỏi em:

- Trí, sao khóc?

Em quay mặt đi, thổn thức:

- Tôi nghĩ đến cô giáo, tôi khóc. Hỏi làm gì?

- Xì, cái bà già đó mà thương dữ vậy?

- Ừ, kệ tôi. Tôi thương cô giáo tôi, tôi không muốn Mai phá cô giáo tôi. Đứa nào ngu mới chê cười cô giáo, chọc quấy cô cho cô buồn.

- Rồi sao nữa?

Em quay phắt lại, trừng mắt với thằng Mai:

- Rồi sao? Tôi muốn mai đem trả cây bút cho cô giáo. Tôi muốn Mai xin lỗi cô, rồi nghỉ học đi.

- Ha ha! Bà ta chết rồi!

Em há hốc miệng nhìn thằng Mai. Em nghe tai em ù đi. Nó đang chậm rãi kể cho em nghe chuyện gì đã xảy ra chiều hôm qua. Em kinh hoàng bịt tai lại. Nhưng tiếng nói của nó vẫn chui vào tai em. Em nức nghẹn:

- Mai ơi! Mai im đi! Mai đi chỗ khác... Tôi sợ Mai quá! Mai ác quá! Tôi không chơi với Mai nữa.

Thằng Mai rút cây bút vàng ra, gõ gõ lên chân em, nói:

- Nói dễ không! Tôi và Trí là một đứa. Dù mỗi đứa mang một tính khác nhau, tôi vẫn không rời Trí được. Chính Trí đã yêu cầu tôi ở bên cạnh Trí, thay thế Trí làm những việc mà Trí không làm được. Tôi đã làm theo lời Trí rồi mà.

Em nói một cách tuyệt vọng:

- Nhưng bây giờ tôi không muốn có Mai nữa. Tôi muốn Mai đi mất. Tôi đau yếu như thế này, Mai chưa vừa lòng sao?

Mai cười khanh khách:

- Nếu Trí không thích tôi, thì chỉ có một trong hai đứa ta sống. Hoặc tôi, hoặc Trí ở lại căn phòng này. Đứa kia phải chết.

Nghe chữ "chết", em giật mình hoảng kinh. Quá sức tưởng tượng của em rồi! Em, hoặc Mai sẽ chết? Em muốn gọi một ai đó ở bên ngoài. Ba đi làm rồi. Má đi chợ rồi. Chị Trang chưa đến. Cô giáo Hòa chết rồi. Em muốn òa lên khóc. Nhưng không, em không khóc. Khóc sẽ làm em có vẻ yếu đuối trước mặt thằng Mai. Nó sẽ khinh thường em. Không được. Kẻ yếu đuối bạc nhược sẽ thất bại. Lời giảng của cô Hòa sống lại trong em thật mạnh mẽ. Em phải tranh đấu với thằng Mai với chính em, với một con người ác độc của em.

- Được rồi! Một trong hai đứa ta sống. Nhưng phải có một cuộc so tài. Nếu tôi thua, tôi sẽ chết cho Mai sống. Bằng ngược lại, Mai phải đi khỏi nơi này.

Thằng Mai vẫn giữ nụ cười tinh ranh:

- Ô-kê.

- Tôi cho Mai bày cuộc trước.

- Được. Chúng ta sẽ đánh cờ.

Thằng Mai sắp bàn cờ ra nệm. Nó rành rẽ hơn em, nên chỉ vài phút đầu là nó đã lấn lướt em. Đầu óc em tối đặc lại vì cơn đau. Em phải khó khăn lắm để theo đuổi, ngăn chặn nó. Em đã tự nhủ lòng "mình sẽ không bao giờ ghiền, không bao giờ ghiền" nên em đã không học những nước cờ cao của thằng Mai. Mồ hôi em đổ giọt. Thằng Mai cười đắc chí. Nhưng kìa, sau lưng thằng Mai, cô giáo Hòa hiện ra. Cô đang ra dấu bày cho em phải nắm con cờ nào, đi đường nào. Em làm theo tay cô. Em thoát được ngõ bí. Và em đã thắng thằng Mai.

Em thở phào. Thằng Mai nói:

- Khoan mừng vội. Còn một cuộc so tài nữa, nếu tôi thắng, sẽ bày cuộc lại.

- Bây giờ tới phiên tôi. Mai lấy cho tôi hai tờ giấy, hai cây bút.

Thằng Mai quay lại phía bàn để lấy giấy bút. Nó hơi nao núng khi thấy cô giáo Hòa ở đó. Em bảo:

- Con xin cô cho một đề toán. Mai và con sẽ làm, đứa nào xong trước là thắng cuộc.

Thằng Mai bối rối. Nhưng cô Hòa đang đọc:

- Tìm chu vi một thửa ruộng hình chữ nhật có chiều dài 30 mét, chiều rộng kém chiều dài 5 mét.

Em chép nhanh vào giấy rồi làm nhanh. Em trừ 30 với 5, rồi cộng 30 với 25, đem nhân đôi. Em thốt lên:

- Thưa cô, ra 110 mét.

Trong lúc đó, thằng Mai không viết được một chữ nào trên giấy. Mặt nó xanh nhợt trong khi em nghe mừng rỡ. Cô giáo Hòa xách lấy tai nó và lôi đi. Nó vùng vẫy nhưng không thoát khỏi bàn tay cô. Em ngơ ngẩn nhìn theo. Cô Hòa và thằng Mai tan biến sau tấm màn cửa sổ gió bay...


Kết

Cho đến bây giờ, tôi vẫn không giải thích được những sự việc đã xảy ra cho Trí. Nhưng tôi không còn dám cho đó là chuyện đùa. Chính Trí đã kể cho tôi nghe khi tôi đến thay cho cậu bé lớp băng mới trên vết thương đã gần lành lặn. Lời thuật của Trí phù hợp với những điều xảy ra cho chị Hòa. Cậu bé bảo rằng chỉ có tôi là người đầu tiên, cuối cùng và duy nhất để cậu bé thố lộ. Lần đầu tiên trong đời y nghiệp của tôi, tôi được nghe một chuyện lạ. Tôi vốn ít tin chuyện huyền hoặc. Bằng cớ là sau đó tôi đã đến trường Việt Ấu để hỏi thăm về cậu bé tên Trí. Ông Hiệu Trưởng bảo rằng Trí vẫn đi học đều đặn nhưng sau ngày cô giáo Hòa nghỉ dạy thì Trí cũng nghỉ học luôn. Thế là không ngờ vực gì nữa. Chuyện của chị Hòa là thật. Chuyện của bé Trí kể là thật. Tôi phải tin, dù là tin với một tấm lòng thắc mắc.

Cậu bé bệnh nhân dễ mến đã khóc khi nhắc đến cô giáo. Trí bảo rằng nó sẽ không học trường Việt Ấu nữa, mà sẽ xin ba má cho đến một trường khác. Tôi nghĩ nếu vậy cũng hay, vì Trí đã không muốn cho ai biết chuyện kỳ quái của mình, thì sự hiện diện của Trí ở lớp cũ sẽ gây nên nhiều thắc mắc cho thầy, cho bạn. Tôi không biết làm gì hơn là an ủi Trí thật nhiều và hứa sẽ là người bạn thân của Trí.

Câu chuyện về hai cậu bé Trí Mai, hai mà một đó, tôi định giữ kín đến trọn đời. Nhưng bỗng hôm nay tôi lại muốn viết để cho các em tôi đọc. Các em tôi mê nghe và mê đọc truyện ma cũng như tôi mê nghề thuốc. Nhưng tôi không muốn các em tôi bị chìm ngập trong rừng sách ma quái đầy đặc ngoài vỉa hè đường phố. Tôi có một ý tưởng nhỏ mọn là "Lấy độc trị độc". Đúng hơn, tôi muốn biến truyện ma – câu chuyện mà tôi kể ra đây – thành một viên thuốc bổ. Các em tôi sẽ cười khi nghe ý kiến này? Không, tôi sẽ phải giải thích với các em rằng hãy nghe câu chuyện bé Trí như nghe một "chuyện ma" thông thường, đừng tin là có thật. Nhưng phải nhớ một điểm chính yếu rằng : cậu bé Trí, có hai con người : một Trí ngoan ngoãn, hiền lành, nhân ái – và một Trí tinh quái, biếng lười, ác độc. Vì cả hai con người ấy đều mạnh mẽ nên đã tách làm hai. Bé Trí đã phải tranh đấu trong cơn đau yếu để cho con người "thiện" thắng con người "ác". Như thế là bé Trí đã thành công. Tôi tin rằng từ nay Trí sẽ học giỏi, tấn tới và nên người, vì không còn sợ bị phá phách bởi con người xấu xa kia.

Nhưng còn các em tôi, còn tôi, cũng như bao nhiêu người, phải nói rằng chúng ta không may mắn như bé Trí. Bởi vì mỗi chúng ta cũng có hai con người – một tốt đẹp và một xấu xa, nhưng hai con người đó không tách rời nhau như Trí và Mai. Mà chúng hiện diện cùng lúc trong tâm hồn ta, trong thể xác ta. Có khi con người tốt mạnh mẽ hơn, giúp ta làm những việc ích lợi, nhân ái. Nhưng cũng có khi con – người – xấu nổi dậy mãnh liệt hơn, sẽ thúc đẩy ta đến bao điều tệ hại. Sẽ không có một sống, một chết như Trí và Mai. Mà tôi, mà các em, phải tự tranh đấu trong chính tư tưởng, trong chính tâm hồn mình, sao cho con người thiện đè ép bản năng thấp kém của mình đi. Đó là điều khó, nhưng không phải là không làm được. Các em tôi sẽ hiểu ý tôi khi tôi kể chuyện này – tạm gọi là một "chuyện ma" – Nhé các em, hãy bắt chước bé Trí. và hãy hiểu chị. Chị Trang.



Tân Định Saigon, 6-10-1973 
NGUYỄN THỊ MỸ THANH

(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 226, ra ngày 1-9-1974)


Nguồn : http://www.camlinguyenthimythanh.com



Thứ Hai, 29 tháng 6, 2015

Qua Giấc Mù Sương (KỲ III)




Một phút trôi qua. Cô Hòa không gọi trả bài nữa. Một sự gì như là chán nản vây quanh cô. Cô bảo học trò giở vở toán ra, rồi đọc:
 

- “Cha tôi mua một sở đất hình chữ nhật dài 18 mét, ngang 6 mét. Giá mỗi mét vuông là 400 đồng, công rào mỗi mét là 180 đồng. Hỏi tiền vốn sở đất là bao nhiêu?”
 

Cô vẽ một hình chữ nhật lên bảng, ghi số đo mỗi cạnh, rồi cô nói:
 

- Bài này cô đã cho làm một lần rồi. Các con ráng nhớ lại và làm cô coi. Trò nào góp trước cô sẽ cho thêm điểm.
 

Những mái đầu cúi xuống bên nhau. Cô Hòa nhìn cảnh ấy, rồi nghe lòng như dịu lại. Cô nhìn Trí. Thằng bé cũng lấy ra một tờ giấy nháp, hí hoáy làm bài. Chốc chốc nó lại nhìn lên cô. Cô tìm thấy nét thông minh sáng sủa trên gương mặt măng sữa ấy. Cô mỉm cười. Thế nào Trí cũng nộp bài trước. Nó là đứa học trò giỏi toán nhất lớp mà!

Mười phút lặng lẽ trôi qua. Cô Hòa hơi thất vọng. Không phải Trí, mà là trò Phương Hương lên nộp bài. Tiếp theo đó là Dũng, Quang, Minh. Rồi những học trò còn lại lục tục kéo nhau lên nộp vở. Cô ngạc nhiên vô cùng. Trí vẫn cắm cúi với cây bút và tờ giấy nháp.

Những tập vở úp chồng lên nhau dần dần. Cô Hòa sốt ruột thật sự. Cô bảo học trò về chỗ ngồi yên, rồi cô bước đến gần Trí, hỏi:
 

- Trí làm chưa ra sao? Đưa cô xem!
 

Trí vội vàng buông bút xuống, và úp tờ giấy nháp vào người. Cô Hòa vẫn ngọt ngào:
 

- Sao lại giấu cô? Nếu con làm không ra thì cứ đưa cô xem. Chắc con quên cách tính diện tích?
 

Trí lắc đầu. Cô lại nói:
 

- Hay là con quên cách tính chu vi?
 

- Không phải.
 

Cô Hòa dằn lòng, nói:
 

- Trí! Con hãy đưa cô xem tờ giấy nháp.
 

Trí lắc đầu lia lịa:
 

- Không mà! Không mà!
 

Có một cái gì như là vẻ gian dối hiện ra trên mặt đứa học trò yêu dấu kia? Cô Hòa nghĩ thế rồi không nén được, cô giật tờ giấy trên tay Trí. Thằng bé la lên một tiếng còn cô Hòa thì biến sắc mặt ngay. Cô run run cầm tờ giấy, đôi mắt mở lớn. Cô không thể ngờ được thằng bé ngoan ngoãn của cô lại tàn nhẫn đến độ này. Trí đã vẽ cô – chính cô – với mái tóc bới cao, nhưng dị hợm hơn, kỳ quái hơn, và rõ ràng nó cũng vẽ cây bút bằng vàng mà mẹ cô đã để lại cho cô như một di vật. Cây bút, thật ra là một cái trâm, bằng vàng thật mà cô luôn luôn giắt trên mái tóc. Nhưng điều khủng khiếp nhất là Trí đã vẽ cô đang bị treo cổ trong một dây thòng lọng, cột tòn ten trên một cây ngang. Cô kinh hãi sờ cổ mình, và sờ lên mái tóc có giắt cây bút vàng. Tiếng nói nghẹn lại trong cổ họng. Cô nhìn Trí, vừa muốn trút tức giận lên đầu nó, vừa muốn khóc để tiêu tan đi sự thất vọng và đau khổ.

Trí vẫn thản nhiên xoay xoay cây bút chì trên tay. Cô Hòa nuốt giận, nói:
 

- Lát nữa, giờ về, Trí ở lại lớp cô bảo.
 

Trí lắc đầu:
 

- Tôi không ở lại đâu. Mẹ tôi dặn về sớm kẻo bị xe đụng.
 

Nghe đến hai chữ “xe đụng”, cô Hòa cảm thấy mềm lòng. Nhưng Trí nói:
 

- Với lại, tôi không thích nghe giảng toán.
 

Cô Hòa giận dữ:
 

- Tôi không giảng toán. Tôi bắt buộc trò phải ở lại tự chuộc lỗi.
 

- Lỗi gì?
 

- Lỗi trò đã khi dễ tôi. Trò còn bé, không được hỗn láo.
 

Thốt xong câu nói ấy, cô Hòa lên ghế ngồi, lòng đau như cắt. Lần đầu tiên cô xưng “tôi” với Trí. Cô không muốn như thế, cũng như không muốn tin rằng nó có thể vẽ cô bị treo tòn ten trong thòng lọng.

Suốt buổi học không khí nặng nề như đeo đá. Khi tiếng chuông reo báo hiệu giờ về, cô Hòa bảo:
 

- Các con về hết đi! Sắp hàng ngay ngắn, đi hàng một. Còn trò Trí, ở lại đây cô bảo.
 

Trí tỉnh bơ ngồi yên tại chỗ. Đoàn học trò nhỏ bé lần lượt đi ra cửa. Đến khi chỉ còn hai người trong lớp, cô Hòa lặng lẽ lấy khăn xóa bảng. Rồi cô lại ngồi, cố gắng nhìn Trí, phân tích những gì đang xảy ra trong con người bé bỏng đó. Cô vừa giận, vừa thấy tội nghiệp. Nếu xưa nay Trí là một đứa ngỗ nghịch, thì không nói làm gì. Nhưng Trí là một học trò thông minh, hiền lành cơ mà! Cô không bao giờ ngờ rằng một sự thay đổi xảy ra đột ngột như thế ở con người nó. Nếu chỉ vì một vết thương ở chân mà làm cho Trí biến đổi, thì thật là một sự đại bất hạnh cho nó.

Cô Hòa nhẹ nhàng đến ngồi trước mặt Trí, nói:
 

- Trí, hãy nghe cô hỏi đây! Tại sao con làm như vậy?
 

Trí hơi ngước lên, chợt che miệng cười. Cô Hòa nuốt nước bọt, gượng hỏi:
 

- Trí cười chuyện gì? Trả lời cho cô, tại sao…
 

- Ha ha! Tôi cười vì… nhìn gần mặt cô, thấy… í ẹ… da cô nhăn nheo, ghê quá hà!...
 

Cô Hòa nghẹn cả cổ, vừa nghe tay mình lạnh ngắt, vừa nghe lửa giận bốc lên bừng bừng. Cô nắm chặt đôi vai Trí, lắp bắp:
 

- Trí! Trí! Trời ơi!
 

Bàn tay cô run rẩy, yếu dần. Trí vùng ra khỏi tay cô, ôm cặp chạy đi, kêu lên:
 

- Tôi phải đi về. Tôi phải đi về. Học lớp này… chán “bỏ xừ”.
 

Cánh cửa bị đóng “rầm” một cái. Cô Hòa gục đầu khóc rưng rức. Cô nghe tứ chi rã rời chưa từng thấy. Cô khóc như người vừa mới đón lấy một tai họa.
 

Chợt cô đứng phắt dậy. Cô chạy ra cửa, thảng thốt gọi:
 

- Trí! Trí!
 

… và vừa trông thấy ông Hiệu trưởng đang xăm xăm đi đến. Cô nghĩ có lẽ nên trình bày cho ông Hiệu trưởng nghe về trường hợp thay đổi bất ngờ của thằng bé. Cô mở miệng toan nói thì ông Hiệu trưởng đã đứng lại, hỏi:
 

- Ủa, bà vừa mới ở lớp ra?
 

Cô Hòa thở dồn dập:
 

- Thưa ông Hiệu trưởng, tôi…
 

- Ơ hay! Sao thằng bé Trí lại nói rằng có “kẻ” chận nó lại trong lớp để đánh nó? Nó vừa khóc vừa chạy mất. Tôi vội đến đây xem ra sao. Thì ra… là bà???
 

Cô Hòa đứng như chôn chân xuống đất, nghẹn ngào.


Năm 

Em đau khổ nhìn con số 5 đỏ chói cạnh bài ám đọc và hàng chữ “Gắng học bài thuộc hơn”. Đúng là nét chữ thân quen của cô giáo Hòa nhưng nó làm em muốn khóc quá! Đâu có bao giờ em bị ít điểm như thế. Và cũng chưa khi nào cô phê em một câu “nhục nhã” như thế. Em buồn bã nói với thằng Mai:
 

- Mai kỳ quá! Sao lại trả bài không thuộc? Tôi đã dạy Mai đọc kỹ rồi mà!
 

Mai nhún vai nói:
 

- Ơ… tôi đâu có quen trả bài. Với lại, bài gì mà khó quá, tôi quên mất.
 

- Nếu Mai quên, thì Mai phải bắt chước tôi, nói “Thưa cô cho con về chỗ để con học lại”, thì đâu có bị 5 điểm.
 

Thằng Mai gắt gỏng:
 

- Nhưng tôi đâu có biết chữ mà học lại. Được 5 điểm còn kêu rêu.
 

Em ngạc nhiên:
 

- Mai… không biết chữ?
 

- Đã bảo rằng lúc Trí thức thì tôi ngủ trong lớp đó, tôi đâu có thích học mà bảo tôi phải biết chữ.
 

Em tròn xoe đôi mắt nhìn thằng Mai. Nó không có vẻ gì áy náy vì con số 5 trong vở cả, mà em thì đau khổ lắm. Em hỏi:
 

- Rồi… giờ toán, Mai làm sao viết?
 

Thằng Mai cười:
 

- Viết? Viết? Tôi đâu thèm viết. Tôi vẽ.
 

- Mai vẽ cái gì?
 

- Vẽ bà giáo. Bà giáo già của Trí đó.
 

Em tức giận:
 

- Mai dám… kêu cô giáo như vậy đó hả?
 

Thằng Mai hếch mặt lên:
 

- Ừ, chứ bộ phải gọi là “cô” sao? Tưởng gì chứ bà ta già khú, năm mươi, sáu mươi tuổi rồi mà “cô” gì?
 

- Tôi gọi “cô” vì cô là cô giáo, hiểu chưa?
 

- Cô giáo của Trí, chứ cô giáo của tôi à? Tôi vẽ bà ta bới tóc ngược trên đầu.
 

- Không đâu! Cô Hòa bới tóc đẹp lắm!
 

- Có giắt cây bút vàng.

- Rồi sao nữa?

- Và bị treo cổ. Ha ha!!!
 

Em hoảng hốt suý‎t rú lên. Em ngồi bật dậy, nhìn đăm đăm vào người thằng Mai. Trời ơi! Nó ác quá! Em run run hỏi:
 

- Rồi… rồi cô có biết không?
 

- Biết chứ lị. Thế mới thích.
 

- Ôi chao!
 

Cô Hòa sẽ thất vọng đến đâu! Em bàng hoàng ngơ ngẩn nhìn thằng Mai:
 

- Mai hại tôi rồi!
 

- Cái gì mà hại? Chuyện cỏn con mà Trí quý‎nh lên vậy?
 

Em ghét thằng Mai quá! Em không muốn nói chuyện với nó. Nó làm em thất vọng, làm cô Hòa buồn khổ. Trời ơi! Em nghĩ đến cô Hòa bị thằng Mai chọc giận. Cô yếu đuối và hiền dịu, làm sao cô trị nó? Em hối hận vì đã để thằng Mai đi học thay em.

Giờ phút trôi qua nặng nề. Em muốn thằng Mai biến mất nhưng nó vẫn thản nhiên chơi cờ trên giường em. Nó chu môi huýt sáo. Em khó chịu nói:
 

- Nè Mai! Ít ra Mai cũng phải giống tôi một tí chứ!
 

- Chứ tôi không giống hệt Trí đây à?
 

- Mai giống tôi về hình vóc, mà tính tình thì…
 

Thằng Mai cười thích chí:
 

- Đúng rồi! Tính tình thì không giống nhau tí nào. Trí đã hiểu rồi đó! Trí muốn tôi giải nghĩa ra hơn nữa không? Hay là Trí cứ nghĩ rằng tính tôi và tính Trí như nước với lửa, trái ngược hẳn nhau đi!
 

Em ngơ ngác nhìn thằng Mai, lẩm bẩm:
 

- Tôi không tin.
 

- Không tin gì?
 

- Tôi không tin rằng Mai trái ngược với tôi. Tôi với Mai là một. Tôi cũng không muốn tin là Mai đã chơi ác với cô giáo.
 

Thằng Mai cười giòn:
 

- Tức quá! Tôi không đem tờ giấy vẽ về cho Trí coi. Bà Hòa đã lấy mất tiêu. Lần sau tôi sẽ có bằng cớ cho Trí tin.
 

Em kêu lên:
 

- Thôi, Mai ơi! Tôi van Mai chớ có đi học nữa.
 

- Hôm qua chính Trí nhờ tôi đi học.
 

Em nói khổ sở:
 

- Nhưng hôm nay khác rồi. Tôi năn nỉ Mai, ở nhà đi!
 

- Trí lẩm cẩm quá, đánh cờ đi!
 

Em gục đầu không đáp. Bàn cờ được thằng Mai sắp xếp lại. Em nghĩ có lẽ nên chiều nó đi, rồi trong khi chơi cờ em sẽ dỗ thằng Mai ở nhà.

Mỗi khi nể lời thằng Mai, ngồi đánh cờ, em vẫn thường nghĩ “Ta sẽ không bao giờ ghiền, không bao giờ ghiền”. Thế nhưng lần này em thấy bàn cờ có một sức hấp dẫn lạ lùng. Em lén nhìn thằng Mai. Từ tia mắt của nó như có một cái gì, vừa như tinh ranh, vừa như muốn thôi miên em. Bỗng dưng em đâm sợ. Hay là em đã ghiền? Không, một đứa học trò không bao giờ ghiền cờ bạc hay bất cứ trò chơi nào. Mỗi dịp tết má vẫn nhắc chừng em đừng chơi “bầu cua”, hay “cờ cá ngựa” nhiều, vì nó dễ sinh ra ghiền – tức là ham mê quá đó! Má nói luôn luôn phải. Em cũng chẳng thấy ham thích gì ở những môn chơi đó. Nhưng tại sao bây giờ em lại cảm thấy khó bỏ? Tại vì thằng Mai chăng? Nếu đúng là nó với em “như nước với lửa” thì em cần phải xa lánh nó, không thể bắt chước nó.

Thấy em uể oải, thằng Mai hỏi:
 

- Sao yếu xìu vậy?
 

- Tôi nhức đầu quá, nghỉ đi!
 

- Đói bụng rồi sao?
 

Em có cớ để gật đầu:
 

- Ừ, vừa mệt, vừa đói bụng.
 

Thằng Mai nhếch mép cười:
 

- Thèm ăn gì?
 

Em vừa đưa tay dẹp bàn cờ vừa nói:
 

- Xem cái chân tôi nè! Tôi chỉ được ăn cháo thịt heo không thôi nó lở ra, chậm lành.
 

- Tội nghiệp! Tôi thì vừa mới ăn một tô phở gà ngon tuyệt, trên đường về nhà.
 

Em ngạc nhiên nhìn thằng Mai, toan hỏi nó một câu, thì nghe có tiếng xe ba ngừng trước sân. Thằng Mai lùi vào góc tủ, rồi biến mất. Em vội vã giấu bàn cờ xuống dưới nệm, sợ ba má thấy được thì nguy.
 

Em nghe tiếng ba huý‎t sáo nho nhỏ trong phòng khách, nhưng chợt có tiếng má nói run run:
 

- Anh… hồi sáng anh có lấy tiền đi không?
 

Giọng ba ngạc nhiên:
 

- Không !?
 

- Chứ sao em lấy tiền đi chợ, thấy mất đâu hết ba nghìn.
 

- Xem lại đâu đó…
 

- Em đã tính đi tính lại, nếu anh không đem theo tức là mất.
 

- Lạ nhỉ!
 

- Nhà mình đâu có ai. Em khóa cửa lại chạy vội ra chợ rồi về. Bé Trí nằm trong phòng, nó cũng đâu có thấy gì. Không lẽ ăn trộm vào lấy có ba nghìn. Thiếu gì những thứ quý hơn để ở ngoài.
 

Ba nói gì em không nghe rõ và cả hai người hình như đang đi dần xuống bếp. Em khẽ gọi:
 

- Mai! Mai!
 

Nhưng không thấy nó xuất hiện. Em thấy mồ hôi tự nhiên đổ giọt trên trán.


Sáu 
 
Cô y tá gỡ lớp băng keo trên chân em, ôn tồn hỏi:
 

- Bớt đau không, cậu bé?
 

Em gật đầu, và theo dõi bàn tay của cô. Mấy lượt băng “ga” được vứt xuống chiếc giỏ dưới chân giường để lộ ra vết thương của em, nơi bánh xe chạm vào. Vết thương còn rướm máu khi động đến, dù đã bớt đau nhức nhưng em vẫn còn nghe ê ê tận trong xương. Má lo âu hỏi:
 

- Cô, liệu cháu có mau lành không cô?
 

Cô y tá cúi xuống nhìn kỹ vết thương, đáp:
 

- Như thế này là tốt lắm bà ạ. Theo như bác sĩ đã nói đó, em bé có lẽ phải nghỉ thêm khoảng nửa tháng.
 

Vừa nói cô vừa gắp miếng bông tẩm thuốc rửa vết thương cho em.Tự nhiên em bật khóc. Má ôm đầu em, an ủi:
 

- Kìa! Hôm qua rửa Trí đâu có khóc, bữa nay bớt đau rồi mà!
 

Cô y tá mỉm cười. Em thổn thức:
 

- Má ơi! Con bị nghỉ học lâu quá…
 

- Không đâu bé! – Cô y tá an ủi – Em nghỉ thêm độ nửa tháng, đâu có lâu. Người ta mà bị thương, phải nằm cả mấy tháng đó! Em là nhẹ nhất. Đừng thèm khóc, xấu trai.
 

- Rồi… rồi nửa tháng sau, có cắt bột đi không cô?
 

- Có chứ! Tha hồ em chạy nhảy.
 

Em quẹt nước mắt:
 

- Em không thèm chạy. Em chỉ thèm đi học thôi.
 

Má bật cười:
 

- Gớm! Siêng năng quá! Cô thấy không, nó chỉ nhớ lớp thôi!
 

Cô y tá đang đắp vết thương em cho kín lỗ vuông khoét trên băng bột, giống như người ta lót nôi cho em bé. Cô nói bằng giọng thật dịu dàng:
 

- Em học trường nào, thưa bà?
 

- Dạ trường Việt Ấu, cô biết?
 

- À, em biết.
 

Má bưng giỏ băng bẩn đi ra ngoài. Cô y tá vừa rửa tay bằng "alcool", vừa nói với em:
 

- Ráng nghỉ cho mau lành, nghen bé!
 

Nhìn nét mặt cô hiền dịu quá, em nghĩ đến cô Hòa. Tự nhiên em thấy mến cô y tá này. Em ước được tâm sự với một người nào, mà người đó không phải là ba hay má. Cô y tá đây chăng? Ồ, nhưng cô sẽ không biết gì về em hơn là cô biết về vết thương đâu. Em thấy em cô đơn thật sự. Mắt em dần dần ứ đầy một màn nước long lanh.
 

Cô y tá ngồi xuống bên em, ngạc nhiên hỏi:
 

- Sao thế bé? Có chuyện gì?
 

Em lắc đầu. Đôi mắt cô y tá nhìn em như muốn đoán những ý nghĩ của em. Chắc cô sẽ không thấy gì hơn là những nhận xét về một đứa con nít. Em cố tạo nét mặt thản nhiên trở lại. Cô y tá hỏi:
 

- Em cần chị giúp em gì không?
 

Chao ơi! Cô ấy xưng “chị” nghe êm ái quá! Em nói không suy nghĩ:
 

- Em nhờ chị làm ơn lấy giùm em hộp đồ chơi trong tủ áo.
 

Cô y tá đứng lên, đến mở cửa tủ, hỏi:
 

- Em để nơi nào?
 

- Dạ ở dưới những chiếc áo treo bên phải.
 

- Rồi, chị thấy rồi.
 

Cô y tá đem hộp đồ chơi đến cho em. Em thở dài. Trời ơi, sao cô không thấy thằng Mai? Em nghĩ thế rồi tự trách mình lẩm cẩm. Nó đâu có trốn trong tủ áo bao giờ!
 

Em giở nắp hộp ra. Cô y tá trầm trồ:
 

- Đẹp quá! Chú lính này, ai cho em đó?
 

Em đáp hãnh diện:
 

- Dạ, em nắn bằng đất sét.
 

Cô y tá cầm người nộm lên, xuýt xoa. Em nói:
 

- Em tặng chị đó!
 

- Thật không?
 

- Thật. Em viết chữ dưới đế chân của nó nghen!
 

Cô y tá đưa cây bút cho em:
 

- Ừ, em viết đi! Tên chị là Trang.
 

Em không ngần ngại, cúi xuống viết thật nhỏ ở mặt dưới chân thằng người nộm: “Thân tặng chị Trang. Em Trí”.

Em cần một người bạn hơn bao giờ hết.

Chị Trang nói chuyện với em một lát thì má vào. Má mời chị Trang uống nước rồi chị Trang kiếu về.Chị cẩn thận gói chú lính lại, bỏ vào túi áo blouse rộng rồi giã từ em:
 

- Ngày mai chị sẽ đến. Có bác sĩ thăm lại cho em.
 

Em “dạ” và nhìn chị Trang, mỉm cười. Em nằm xuống, nhắm mắt lại và nghe tiếng chân của má và chị Trang đi xa dần.

Hình như chị Trang đã rồ xe đi về. Em vui vui nghĩ đến người bạn mới. Ngoài phòng khách có tiếng má gọi:
 

- Na ! Na!
 

Em mở mắt. Sao không nghe tiếng Na kêu “meo meo” trả lời? Con mèo này, chắc đã qua nhà hàng xóm ăn vụng rồi chăng? Em thở dài. Từ hôm em bị thương đến nay con Na lạt lẽo với em hết sức. Nó chẳng còn quấn quít bên chân em, nhảy lên lòng em mà đòi ăn. Ghét nó ghê đi! Nhưng nó chỉ là một con mèo, một con vật, làm sao nó có được những ý nghĩ sâu sắc như con người được?
 

- Na! Na! Mi đâu rồi?
 

Tiếng má gọi khắp nơi. Rồi má mở cửa phòng, ló đầu vào hỏi:
 

- Có con Na trong này không Trí? Má cho nó mấy miếng thịt vụn. Na! Na!
 

Em ngóc dậy nhìn quanh tìm con mèo. Má cúi xuống gầm giường gọi luôn miệng, rồi má qua bên bàn. Bỗng má kêu lên một tiếng lạ lùng. Má run rẩy đứng dậy, hỏi:
 

- Cái gì đây?
 

Em cũng suý‎t la lên theo. Em thấy dưới chân bàn có một nhúm lông màu trắng. Đúng là lông của con mèo Na. Má nói bàng hoàng:
 

- Sao lại có lông con Na ở đây?
 

Má chạy vụt ra ngoài, kêu luôn miệng:
 

- Na! Na!
 

Hết năm phút trôi đi yên lặng. Chợt em nghe má rú lên dưới bếp. Em ngồi bật dậy và cố nhấc cái chân nặng trịch nhưng không được. Em như bị dán cứng xuống giường. Em la lớn:
 

- Má ơi! Cái gì vậy?
 

Tim em đập thật nhanh. Má chạy vụt vào phòng, ôm chặt lấy em. Nét mặt má bày tỏ một sự kinh hoàng chưa từng thấy. Da má xanh lét. Em hoảng hồn, tưởng như có một sự gì khủng khiếp xảy ra dưới nhà bếp. Má nói tắc cả tiếng:
 

- Trời ơi! Trời…!
 

- Má! Cái gì vậy?
 

- Con Na… con Na…
 

- Sao má?
 

- Con Na nằm ở trong… lò… nướng… bánh…
 

Nói được câu ấy, má bật khóc ngon lành. Em hét lên kinh hãi. Trời ơi! Ai đã giết mèo Na? Ghê gớm quá! Em muốn xỉu đi được.

 
Bảy 

Em đưa hai ngón tay bịt chặt mũi lại. Nhưng cái mùi đó vẫn như chui vào từng thớ thịt của em. Trời ơi! Mùi y hệt như mùi gà rô-ti. Em muốn hét lên. Không phải gà rô-ti, mà là thịt của con mèo Na yêu dấu. Ba đang lấy đĩa thịt mèo Na ra khỏi lò nướng. Má đang luôn miệng kêu trời ở dưới bếp. Em ở trong phòng, nghe lạnh cả xương sống. Ai đã giết mèo Na? Câu hỏi lớn nhất của em là như vậy. Em nhìn quanh. Cái gì trong nhà bây giờ cũng đáng sợ cả. Nhúm lông của mèo Na còn nằm dưới chân bàn. Hình như đêm hôm qua mèo Na có vào phòng em, đi quanh rồi lại đi ra. Ai đã nỡ giết mèo Na? Ngay cả em cũng không dám đánh nó một cái nhẹ nữa mà!

Má khóc rưng rức đi theo ba vào phòng. Vừa thấy ba, em òa khóc:

- Ba ơi! Sao mèo Na lại chết?

Ba không trả lời em mà ngồi thừ trên ghế. Em hỏi thúc:

- Ba ơi! Thịt mèo Na đâu rồi?

- Ba… ba đã cho vào một cái bao rồi con à.

Em nức nở:

- Na ơi! Na ơi!

Ba điềm tĩnh bảo em:

- Đừng khóc nữa con. Má cũng sợ nữa kìa! Hãy để cho ba suy nghĩ nào! Đừng làm ba rối.

Má sụt sùi:

- Ngoài anh và em, bé Trí thì nằm trên giường, nhà ta còn ai? Mà dù có, cũng không ai đi giết một con mèo. Ai mà có gan ăn thịt mèo?

Ba hỏi:

- Sáng nay có ai đến chơi không?

- Không. À, chỉ có cô y tá Trang đến thay băng cho Trí.

Ba trợn tròn đôi mắt. Má vội vàng nói ngay:

- Nhưng không thể ngờ bậy cho cô Trang. Cô ấy ở trong phòng này săn sóc cho con rồi về, không làm gì hơn nữa.

 Em nói:
 

- Chính con cũng nói chuyện với chị Trang sau khi băng bó xong nữa.

______________________________________________________________________
Xem tiếp KỲ IV

(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 225, ra ngày 1-8-1974)
oncopy="return false" onpaste="return false" oncut="return false"> /body>